Giáo án Ngữ văn khối 9 - Phần: Ôn luyện về kiểu bài tự sự

Giáo án Ngữ văn khối 9 - Phần: Ôn luyện về kiểu bài tự sự

ÔN LUYỆN VỀ KIỂU BÀI TỰ SỰ

 Số tiết: 6

A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:

 Trên cơ sở hiểu biết những nét cơ bản về văn tự sự, giúp học sinh:

 -Hiểu được vai trò của miêu tả nội tâm; mối quan hệ giữa nội tâm với ngoại hình, ngoại cảnh trong văn bản tự sự.

 -Nắm được khái niệm về lập luận, các dấu hiệu của lập luận trong văn bản tự sự.

 - Cung cấp cho các em phương pháp giúp bài văn tự sự đạt hiệu quả hơn .

(biết vận dụng các thao tác hỗ trợ như: kết hợp tự sự với miêu tả, miêu tả nội tâm, nghị luận.)

 - Hướng dẫn thực hành theo từng nội dung ôn luyện để rèn kỹ năng làm văn tự sự.

B. CHUẨN BỊ:

 1. Giáo viên:

 -Tài liệu: Rèn kĩ năng làm văn tự sự ở trung học cơ sở.

 -Các dạng bài tập liên quan.

 2. Học sinh:

 Ôn lại kiến thức văn tự sự lớp 8,9.

C. BÀI ĐỌC:

 NHỮNG KIẾN THỨC CẦN NHỚ VỀ VĂN TỰ SỰ.

 Nói một cách ngắn gọn, tự sự là kể một câu chuyện để từ đó nói với người đọc một điều gì đó về cuộc sống và con người.

 Trong bài văn tự sự, bao giờ cũng có một câu chuyện. Trong câu chuyện ấy, có một hoặc nhiều nhân vật và những sự việc diễn ra theo một trình tự tiến triển hợp lí.

 Để viết một bài văn tự sự, cần lưu ý những điều sau đây:

 Thứ nhất, câu chuyện sẽ kể là gì? Chuyện của ai? Kể câu chuyện này nhằm nói lên điều gì về cuộc sống?

 Thứ hai, trong câu chuyện có những nhân vật nào? Tính cách các nhân vật ấy như thế nào? Nhân vật nào là nhân vật chính? Trong một số tác phẩm, đặc biệt như truyện loài vật, hoặc truyện ngụ ngôn, nhân vật có thể là một con vật, một đồ vật, hoặc một loài cây, một loài hoa. Trong trường hợp này, những nhân vật ấy, tuy không phải là con người, song thực chất đã được người viết gán cho những tính cách của con người, để nói về con người.

 Thứ ba, câu chuyện phải có sự phát triển hợp lí qua từng chi tiết, làm sao để đọc chi tiết trước mà người đọc không thể đoán được chi tiết sau.

 Thứ tư, lời kể chuyện phải rõ rang và phải phù hợp với tính chất của nhân vật và câu chuyện. Lời kể nhẹ nhàng, trang nghiêm, hoặc buồn bã, hoặc dí dỏm, hài hước.

 Thứ năm, một câu chuyện hấp dẫn được kết thúc bằng một chi tiết bất ngờ. Từ kết thúc đó, người đọc sẽ ngẫm nghĩ để tự mình tìm ra một lời kết luận. Người kể chuyện không nên kết luận bằng một nhận xét hay một lời khuyên đạo lí giống như bài văn nghị luận hay một bài văn biểu cảm.

 

doc 6 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 823Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn khối 9 - Phần: Ôn luyện về kiểu bài tự sự", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ÔN LUYỆN VỀ KIỂU BÀI TỰ SỰ
 Số tiết: 6
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
 Trên cơ sở hiểu biết những nét cơ bản về văn tự sự, giúp học sinh:
 -Hiểu được vai trò của miêu tả nội tâm; mối quan hệ giữa nội tâm với ngoại hình, ngoại cảnh trong văn bản tự sự.
 -Nắm được khái niệm về lập luận, các dấu hiệu của lập luận trong văn bản tự sự. 
 - Cung cấp cho các em phương pháp giúp bài văn tự sự đạt hiệu quả hơn .
(biết vận dụng các thao tác hỗ trợ như: kết hợp tự sự với miêu tả, miêu tả nội tâm, nghị luận...)
 - Hướng dẫn thực hành theo từng nội dung ôn luyện để rèn kỹ năng làm văn tự sự.
B. CHUẨN BỊ: 
 1. Giáo viên:
 -Tài liệu: Rèn kĩ năng làm văn tự sự ở trung học cơ sở.
 -Các dạng bài tập liên quan. 
 2. Học sinh:
 Ôn lại kiến thức văn tự sự lớp 8,9. 
C. BÀI ĐỌC:
 NHỮNG KIẾN THỨC CẦN NHỚ VỀ VĂN TỰ SỰ.
 Nói một cách ngắn gọn, tự sự là kể một câu chuyện để từ đó nói với người đọc một điều gì đó về cuộc sống và con người.
 Trong bài văn tự sự, bao giờ cũng có một câu chuyện. Trong câu chuyện ấy, có một hoặc nhiều nhân vật và những sự việc diễn ra theo một trình tự tiến triển hợp lí.
 Để viết một bài văn tự sự, cần lưu ý những điều sau đây:
 Thứ nhất, câu chuyện sẽ kể là gì? Chuyện của ai? Kể câu chuyện này nhằm nói lên điều gì về cuộc sống?
 Thứ hai, trong câu chuyện có những nhân vật nào? Tính cách các nhân vật ấy như thế nào? Nhân vật nào là nhân vật chính? Trong một số tác phẩm, đặc biệt như truyện loài vật, hoặc truyện ngụ ngôn, nhân vật có thể là một con vật, một đồ vật, hoặc một loài cây, một loài hoa. Trong trường hợp này, những nhân vật ấy, tuy không phải là con người, song thực chất đã được người viết gán cho những tính cách của con người, để nói về con người.
 Thứ ba, câu chuyện phải có sự phát triển hợp lí qua từng chi tiết, làm sao để đọc chi tiết trước mà người đọc không thể đoán được chi tiết sau.
 Thứ tư, lời kể chuyện phải rõ rang và phải phù hợp với tính chất của nhân vật và câu chuyện. Lời kể nhẹ nhàng, trang nghiêm, hoặc buồn bã, hoặc dí dỏm, hài hước.
 Thứ năm, một câu chuyện hấp dẫn được kết thúc bằng một chi tiết bất ngờ. Từ kết thúc đó, người đọc sẽ ngẫm nghĩ để tự mình tìm ra một lời kết luận. Người kể chuyện không nên kết luận bằng một nhận xét hay một lời khuyên đạo lí giống như bài văn nghị luận hay một bài văn biểu cảm. 
D. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP: 
 Tiết 1-2: Miêu tả và miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự.
I. Củng cố phần lí thuyết:
 1. Vai trò của yếu tố miêu tả trong văn bản tự sự?
2.a,Thế nào là miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự? Các cách miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự?
 b,Vai trò, vị trí và tác dụng của miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự?
II. Thực hành luyện tập:
 1. Xác định yếu tố tự sự, yếu tố miêu tả, yếu tố nội tâm trong các đoạn văn sau:
 a. “ Mẹ tôi lấy vạt áo nâu thấm nước mắt mắt cho tôi rồi xốc nách tôi lên xe. Đến bấy giờ tôi mới kịp nhận ra mẹ tôi không còm cõi quá như cô tôi nhắc lại lời người họ nội của tôi. Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má. Hay tại sự sung sướngbỗng được trông nhìn và ôm ấp cái hình hài máu mủ của mình mà mẹ tôi lại tươi đẹp như thuở còn sung túc? Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường.
 Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ êm dịu vô cùng. Từ ngã tư đầu trường học về đến nhà, tôi không còn nhớ mẹ tôi đã hỏi và tôi đã trả lời mẹ tôi những câu gì.”
b." Thực sự mẹ không lo lắng đến nỗi không ngủ được. Mẹ tin đứa con của mẹ lớn rồi. MÑ tin vào sự chuẩn bị rất chu đáo cho con trước ngày khai trường. Còn điều gì để lo lắng nữa đâu ! Mẹ không lo, nhưng vẫn không ngủ được . Cứ nhắm mắt lại là dường như bên tai vang lên tiếng học bài trầm bổng : " Hằng năm cứ vào cuối thu...Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp " 
	 ( Lý Lan - Cổng trường mở ra )
 * Lập bảng và sắp xếp các yếu tố vào bảng tương ứng.
 Tự sự
 Miêu tả
 Miêu tả nội tâm
 2. Bổ sung những từ ngữ, hình ảnh, câu văn miêu tả để viết lại đoạn văn tự sự sau đây sao cho cách diễn đạt trở nên hấp dẫn, sinh động hơn .
 Một buổi sáng chủ nhật, chúng tôi đến nhà Hà để học nhóm. Sau mấy ngày mưa, đường làng rất trơn. Đứa nào cũng sợ trượt ngã, cố bám mấy ngón chân xuống nền đường.
3. Em đã làm một việc có lỗi với mẹ khiến em ray rức mãi.Hãy kể lại việc đó.
 * Gợi ý:
 - Kể một việc làm của bản thân- việc làm đó không đúng , đã làm mẹ đau lòng. Bản thân đã nhận ra những sai lầm của bản thân và xấu hổ, hối hận. 
 - Diễn tả được quá trình diễn biến nội tâm của nhân vật. 
 - Câu chuyện phải có được ý nghĩa bài học về đạo đức.
 Tiết 3 - 4: Sử dụng lập luận trong văn bản tự sự.
 1.Vai trò, vị trí và tác dụng của lập luận trong văn bản tự sự?
 2. Đọc các đoạn văn tự sự sau:
 a.	" Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên ũi quân lính , truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng :
	- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết
 ch­a ? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người ph­ơng Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân,, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đánh đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không muốn ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. ở các thời ấy, Bắc Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi hại, được mất đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo ta là không nói trước ! " 
	 ( Ngô gia văn phái - Hoàng Lê nhất thống chí ) 
 b. Một hôm trên đường đi học về, Hùng, Qúy và Nam trao đổi với nhau xem trên đời này cái gì quý nhất.
 Hùng nói: “ Theo tớ, quý nhất là lúa gạo. Các cậu có thấy ai không ăn mà sống được không”?
 Quý và Nam cho là có lí. Nhưng đi được mươi bước, Quý vội reo lên: “Bạn Hùng nói không đúng, quý nhát phải là vàng. Mọi người chẳng thường bảo quý như vàng là gì? Có vàng là có tiền, có tiền sẽ mua được lúa gạo”.
 Nam vội tiếp ngay: “Qúy nhất là thì giờ.Thầy giáo thường nói thì giờ quý hơn vàng bạc, có thì giờ mới làm ra được lúa gạo vàng bạc!”
 Cuộc tranh luận sôi nổi, người nào cũng có lí, không ai chịu ai. Hôm sau ba bạn đến nhờ thầy giáo phân giải.
 Nghe xong thầy giáo mĩm cười rồi nói:
 -Lúa gạo quý vì ta phải đỗ bao mồ hôi mới làm ra được. Vàng cũng quý vì nó rất đắt và hiếm. Còn thì giờ đi qua không lấy lại được, đáng quý lắm .Nhưng lúa gạo, vàng bạc, thì giờ vẫn chưa phải là quý nhất. Ai làm ra lúa gạo, vàng bạc, ai biết dùng thì giờ? Đó chính là người lao động các em ạ. Không có người lao động thì không có lúa gạo, không có vàng bạc nghĩa là mọi thứ dều không có, và thì giờ cũng trôi qua một cách vô vị mà thôi.
 ( Trinh Mạnh – Cái gì quý nhất)
 Hỏi:(1)Xác định yếu tố nghị luận trong văn bản trên?.
 (2) Cho biết vai trò của yếu tố nghị luận trong việc làm nổi bật nội dung văn bản trên?
 3.Thông qua hình thức và cách lập luận, hãy nhận xét về tính cách ( hoặc đời sống nội tâm ) của nhân vật trong đoạn trích sau :
 “  Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ? Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói ? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi !Cực nhục chưa , cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao ? Ai người ta chứa.Ai người ta buôn bán mấy.Suốt cả cái nước Việt Nam này, người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nướcLại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã ró cái cơ sự này chưa ?”...
 ( Kim Lân )
3. Kể lại một kỷ niệm sâu sắc về người bạn thân.
 * Gợi ý: 
-Xác định đúng đối tượng để kể chuyện là bạn thân
-Kỷ niệm được kể thực sự sâu sắc, gây xúc động ở người đọc, có ý nghĩa giáo dục về tình bạn cao đẹp, về tư tưởng về đạo lý làm người
-Có tình huống đặc sắc, tạo kịch tính
-Vận dụng các yếu tố miêu tả nội tâm, biểu cảm, nghị luận, ... vào văn bản tự sự
 Tiết 5-6:Thực hành tổng hợp.
1. Đọc và xác định yếu tố miêu tả nội tâm và lập luận thể hiện trong văn bản sau:
 a. HAI MƯƠI NĂM SAU, ĐẢN VỀ THĂM MỘ MẸ
 Tôi vẫn nhớ như in cái ngày tồi tệ đó, cái ngày mà tôi biết được sự thật về cái chết của mẹ tôi, tôi đau đớn vô cùng. Tôi vùng bỏ chạy đi mặc cha tôi đang rơm rớm nước mắt kể lại bi kịch ngày ấy. Tôi cứ khóc và chạy mãi, chạy mãi. Rồi tôi lạc vào rừng. Một người tiều phu già không con đã cưu mang tôi đến tận bây giờ. Suốt bao nhiêu năm tháng, tôi không một lần về thăm cha và nỗi đau đớn uất hận cứ đeo bám lấy tôi. Thoắt cái, khi con thoi miệt mài thêu dệt những chuỗi ngày quạnh quẽ, kể từ ngày mẹ mất, hai mươi năm đã trôi qua. Tôi đã hai mươi ba tuổi, hai mươi ba cái xuân lặng lẽ đã đi qua cuộc đời tôi. Đứng trên thảm cỏ xanh, tôi hướng mắt nhìn về chốn quê nhà. Thấy bao la một vùng rộng khắp, tiếng xao xác của hàng cây, tiếng vi vu của làn gió, tiếng dập dềnh của dòng sông, tất cả như thôi thúc tôi trở về. Phải về thôi, ít ra là về thăm mộ mẹ!
 Vừa bước vào làng, tôi lặng lẽ chìm vào cõi nhớ: mới ngày nào kia, thảm cỏ tươi non mơn mởn, bầu trời rợp mát cánh chim; thế mà giờ đây: cỏ khô cằn, vàng úa, bầu trời u ám, heo hút trong làn gió se lạnh. Tôi bồi hồi tìm ngôi mộ thân quen. Nhiều cặp mắt tò mò nhìn tôi. Tôi muốn chào hỏi vì đó đều là những người làng mà tôi từng biết nhưng sao không thốt được nên lời. Họ nhìn tôi nhưng dường như không nhận ra tôi:
 -Anh từ đâu đến? Anh tìm ai chăng?
 Tôi đau đớn không trả lời mà quay vội đi để giấu hai hàng lệ: họ đã quên tôi thật rồi!Tôi lặng ngắm nhìn mộ mẹ, nhìn như muốn thu giữ lấy cho thoả nỗi mong nhớ bao năm qua. Một nấm mộ đơn sơ nhưng sạch sẽ. Một bình hoa còn tươi mới. Một bát nhang đã đầy. Cỏ xung quanh được giẫy gọn. Tôi biết đó là sự chăm sóc hương khói của cha tôi, nhưng lòng tôi sao vẫn cứ ngập nỗi oán hờn: Tôi ghét cha tôi. Làm sao có thể bù đắp được sự thiếu hụt tình mẹ trong tôi? Làm sao có thể xoá hết tội lỗi của ông ta đối với mẹ? Làm sao mẹ tôi có thể sống lại?... Đột nhiên, một làn gió nhẹ thoáng qua mang theo mùi hương dịu nhẹ trong tiếng lá khô xào xạc mùi hương quen thuộc nhưng xa xămmuì hương trên áo mẹLòng tôi chợt dịu lại, nỗi oán hờn dần lắng xuống. Tôi ngước nhìn bầu trời, một khung trời trong xanh, không nắng chói chang, không vương chút bụi. Cảnh vật quanh tôi như bình yên, như thanh thản.
 Đằng xa, tôi thấy một cụ già tóc bạc, khuôn mặt phảng phất nỗi buồn khổ xót xa, duy đôi mắt nhìn ai cũng chan hoà cởi mở. Cầm trên tay một bó hoa cúc tím, một thẻ nhang thơm, ông từ từ đi về phía tôi. Tôi nhìn như thôi miên vào bộ quần áo nâu bạc đã sờn, nhìn đôi má hóp, nhìn dáng đi nặng trĩu nỗi niềm. Tôi chợt sững người: đó chính là cha tôi. Mới hơn mười năm mà ông đã tiều tuỵ đến như vậy sao? Tôi cứ đứng ngây ra, không ôm chầm lấy cha, không mừng rỡ hỏi han như bao người con lâu ngày gặp cha. Tôi nhìn ông bằng ánh mắt xa lạ. Hình như ông đã nhận ra tôi. Nét mặt rạng rỡ, ông quýnh quáng vội vàng chạy lại, giọng run run: “Đản đấy hả con? Con đã về đấy ư?” Tôi khẽ lách sang một bên, cố lấy giọng lạnh lùng: “Ông còn nhớ tôi à? Thế nhưng tôi lại chẳng nhớ ông đâu. Làm sao tôi có thể nhớ đến người đã bức tử mẹ tôi. Tôi tôi ghét ông.” Ông cúi đầu, nín lặng. Nước mắt giàn giụa, bàn tay già nua run rẩy năm chặt lấy tay tôi:
 -“Con ơi, cha không trách con đâu.Tất cả là tại cha, tại cái tính đa nghi độc đoán của cha. Cha ân hận lắm, con ơi!”
 Tôi không trả lời. Đột nhiên tôi nhận ra chiếc hoa vàng trên áo ông ta - kỷ vật của mẹ tôi. Ông vẫn còn giữ ư? Vẫn mang lấy tình yêu mẹ tôi bên mình ư? Tôi lại nhìn vào mắt ông. Ánh mắt già nua như đau đớn, như chờ đợi, như khẩn cầu. Nước mắt chợt tràn ra, không kìm được, tôi ôm chầm lấy ông và gọi lớn: “Cha!”.Tiếng “cha” của bao nhiêu năm nghẹn cứng, tiếng cha của bao nhiêu năm oán hờn. Trái tim tôi như mềm ra, đập liên hồi, trái tim đã lại mở rộng khoan dung. Tôi dìu cha ngồi xuống trước mộ mẹ. Làn gió khi nãy lại thoảng qua, bao trùm lấy cha con tôi ấm áp, thân mật. Dù không ai nói gì, cha và tôi nhìn nhau. Cả hai đều biết: mẹ tôi đã về.
 Cha và tôi ngồi đó, rất lâu. Làn gió kia cũng ở bên thoảng dịu dàng thân thiết. Tôi cảm thấy tâm hồn chợt bình an và thanh thản. Sao phải cứ mãi kiếm tìm, sao phải cứ mãi trách hờn. Chẳng phải là gia đình tôi đang đoàn tụ đó sao?
 (Thu Hương)
b. " Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi cũng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ ... Một hôm, tôi phàn nàn việc ấy với với Binh Tư . Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo:
	Lão làm bộ đấy! thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu : Lão vừa xin tôi một ít bả chó...
	Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên .Hắn thì thầm :
	Lão bảo có con chó nào cứ đến vườn nhà lão ...Lão định cho nó xơi một bữa . Nếu trúng lão với tôi uống rượu.
	Hỡi ơi lão Hạc !Thì ra đén lúc cùng lão cũng cò thể làm liều nh ai hết ... Một người như thế ấy ! ... 
Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!... Một ngưới nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng ....Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo Binh Tư để có ăn  ? Cuộc đời này quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn ... 
	 (Nam Cao . Lão Hạc ).
* Lập bảng và sắp xếp các yếu tố vào bảng tương ứng theo mẫu sau:
 Phần văn bản 
 Miêu tả nội tâm
 Lập luận
 a
 b.
3. Kể lại một câu chuyện với chủ đề “ Trường học thân thiện” .
* Gợi ý:
 Với chủ đề “Trường học thân thiện” các em có thể xây dựng câu chuyện với một trong các nội dung gợi ý sau đây :
 -Thân ái , hoà nhã, giúp đỡ bạn bè.
 - Xây dựng ngôi trường xanh sạch đẹp.
 - Kính trọng thầy cô giáo 
 Bài làm có kết hợp giữa tự sự với miêu tả, biểu cảm , nghị luận 
 Bố cục đầy đủ . Bíêt cách xây dựng câu chuyện có nhân vật, có chuỗi sự việc diễn biến hợp lí 
4.Kiểm tra 15 phút (Viết đoạn văn).

Tài liệu đính kèm:

  • docChu de tu chon Ngu Van 9(1).doc