Ôn Ngữ văn 9 - Kiều ở lầu ngưng bích

Ôn Ngữ văn 9 - Kiều ở lầu ngưng bích

I.Giới thiệu vị trí, bố cục.

1- Vị trí đoạn trích: Sau khi bị MGS lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận c/s lầu xanh. Đau đớn, tủi nhục, phẫn uất, nàng định tự tử. Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả chồng cho nàng về nơi tử tế. Tú Bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Kiều trên con đường lưu lạc đầy máu và nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt 15 năm trời.

- Đây là đoạn thơ dài 22 câu là những "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình"miêu tả nỗi buồn nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, trong cảnh sầu, thương, buồn tủi, cô đơn.

2. Kết cấu đoạn thơ

- Sáu câu đầu: hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều

- Tám câu tiếp: nỗi nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của nàng

- Tám câu cuối: tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật

II Phân tích

1. Hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Kiều (6 câu đầu)

- Hai chữ "khoá xuân"cho thấy Kiều ở lầu NB thực chất là bị giam lỏng

- Cảnh thiên nhiên nơi lầu NB:

+ Vẻ non xa, tấm trăng gần

+ Bốn bề bát ngát xa trông

+ Cát vàng, cồn nọ, bụi hồng, dặm xa

- Kiều trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ 6 chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: "bốn bề bát ngát xa trông". Cảnh "non xa", "trăng gần"như gợi lên hình ảnh lầu NB chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ lầu NB nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu chơi vơi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người.

 

doc 3 trang Người đăng minhquan88 Lượt xem 1177Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Ôn Ngữ văn 9 - Kiều ở lầu ngưng bích", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
I.Giới thiệu vị trí, bố cục.
1- Vị trí đoạn trích: Sau khi bị MGS lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận c/s lầu xanh. Đau đớn, tủi nhục, phẫn uất, nàng định tự tử. Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả chồng cho nàng về nơi tử tế. Tú Bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Kiều trên con đường lưu lạc đầy máu và nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt 15 năm trời.
- Đây là đoạn thơ dài 22 câu là những "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình"miêu tả nỗi buồn nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, trong cảnh sầu, thương, buồn tủi, cô đơn. 
2. Kết cấu đoạn thơ
- Sáu câu đầu: hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều
- Tám câu tiếp: nỗi nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của nàng
- Tám câu cuối: tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật
II Phân tích 
1. Hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Kiều (6 câu đầu)
- Hai chữ "khoá xuân"cho thấy Kiều ở lầu NB thực chất là bị giam lỏng
- Cảnh thiên nhiên nơi lầu NB:
+ Vẻ non xa, tấm trăng gần
+ Bốn bề bát ngát xa trông
+ Cát vàng, cồn nọ, bụi hồng, dặm xa
- Kiều trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ 6 chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: "bốn bề bát ngát xa trông". Cảnh "non xa", "trăng gần"như gợi lên hình ảnh lầu NB chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ lầu NB nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu chơi vơi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người.
- HÌnh ảnh "non xa", "trăng gần", "cát vàng", "bụi hồng"có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian. Qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.
- Cụm từ "mây sớm đèn khuya"gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người. Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều thui thủi quê người một thân. Nàng chỉ còn biết làm bạn với "mây sớm đèn khuya". Nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối.
- Tâm trạng Kiều: Cô đơn, tủi nhục đau khổ một cách vô vọng (bẽ bàng) Chỉ còn biết đối diện với "mây sớm đèn khuya", lòng tan nát đau buồn "nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng". Hai nỗi buồn như chia xé tâm hồn nàng. Bốn chữ "như chia tấm lòng"diễn tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát đau thương. Tuy sống giữa một khung cảnh đẹp, êm đềm, có non xa và trăng gần nhưng nàng vẫn thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi lẽ "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
- Nghệ thuật: Không gian NT bao la (cảnh vật mênh mông rộng lớn, rợn ngợp) tương phản với sự đơn độc, trơ trọi, bé nhỏ của con người càng nhấn mạnh tâm trạng cô đơn buồn tủi của TK. Bút pháp NT tả cảnh ngụ tình đặc sắc. 
 2. 8 câu tiếp: Nỗi nhớ thương của Kiều
* Đầu tiên Kiều nhớ Kim Trọng. Điều này phù hợp với quy luật tâm lý, vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du khi thể hiện khách quan tâm cảnh của Kiều. Nguyễn Du là người ngợi ca thiên diễm tình tự do từ khi chớm nở, sau này khi Kiều lâm nạn, ty dang dở, ông cũng là người thông cảm với những đổ vỡ, tan nát của một mối tình mà trái tim Kiều lúc nào cũng như chảy máu, vì đau thương và hối hận. 
 Cho nên khi viết về tâm trạng nhớ thương của Kiều, ông đã đặt tình trước hiếu, đảo ngược trật tự của đạo lí pk để K trước hết nghĩ đến người yêu. Mặt khác đối với cha mẹ, K đã bán mình chuộc cha, ơn sinh thành đã có phần được đền đáp, còn đối với người yêu, Kiều vẫn coi mình là kẻ lỗi hẹn, bạc tình, khi MGS làm nhục, lại bị ép phải tiếp khách làng chơi nên nỗi đau nhất của K lúc này là "tấm son gột rửa 
bao giờ cho phai".. Trong tâm cảnh như thế, khi một mình một bóng, NDu đã để nàng trước hết nghĩ tới chàng Kim. Cực kì tinh tế khi thể hiện tính biện chứng của tâm hồn nhân vật, ND thật xứng đáng là một thiên tài.
- Nhớ về Kim Trọng, TK "tưởng người", tưởng nhớ lúc thề nguyền đôi lứa: tưởng người dưới nguyệt chén đồng -> nàng vẫn nhớ chàng Kim, người đã cùng nàng đứng dưới trăng thề nguyền hôm nao: 
"Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song"
- Hình dung, tưởng tượng cảnh KT cũng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích: "tin sương luống những rày trông mai chờ"
- Nàng nhớ về KT với tâm trạng đau đớn, xót xa. Câu thơ "tấm sonphai"có 2 cách hiểu: tấm lòng son là tấm lòng nhớ thương KT không bao giờ nguôi quên, hoặc tấm lòng son của K bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa được.
- Nghệ thuật: Lời ít mà ý nhiều. Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách biệt như "dưới nguyệt chén đồng", "tin sương", "rày trông mai chờ", "bên trời góc bể", "tấm son gột rửa" đã diễn tả và bộc lộ một cách sâu sắc cảm động tình cảm thương nhớ người yêu trong mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà chia lìa đau đớn. Các động từ - vị ngữ "tưởng, trông, chờ, bơ vơ, gột rửa, phai"đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ.
* Nhớ cha mẹ: Tình cảm chủ yếu là xót xa, thương nhớ. 
- Nàng thương cha mẹ khi sáng, khi chiều tựa cửa ngóng tin con, trông mong sự đỡ đần. 
- Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà nàng không được tự tay chăm sóc và hiện thời ai là người trông nom. 
- Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là "gốc tử đã vừa người ôm", nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu. 
 - Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách : "hôm mai", "cách mấy nắng mưa", các thi liệu, điển cố văn học Trung Hoa như "sân lai gốc tử"và thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh"đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ, nỗi đau buồn, tấm lòng hiếu thảo của Kiều, của đứa con gái đầu lòng đã không thể, không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu. Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hoà giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của TK. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người
=> Trong cảnh ngộ ở lầu NB, K là người đáng thương nhất, nhưng nàng đã quên cảnh ngộ bản thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Kiều là người tình thuỷ chung, người con hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha đáng trọng. 
3. Tám câu cuối : tâm trạng Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
- Diễn tả tâm trạng Kiều, Nguyễn Du đã chọn nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình"(mượn cảnh vật để gửi gắm tâm trạng. Cảnh không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng, cảnh là phương tiện miêu tả còn tâm trạng là mục đích miêu tả.), các câu hỏi tu từ, từ láy biểu cảm, sự điệp nhịp...
- Điệp ngữ "buồn trông"(buồn mà nhìn ra xa, buồn mà trông ngóng, mong đợi một điều gì đó mơ hồ, xa xôi) tạo một âm hưởng trầm buồn. "Buồn trông"đã trở thành điệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng buồn tê tái, đau thương, cô đơn của nàng Kiều. Giọng thơ tha thiết não nùng.
- Bốn bức tranh buồn: cứ mỗi cặp câu lục bát là một bức tranh buồn của tâm trạng, nỗi buồn nhiều vẻ.
* Buồn trông cửa bể chiều hôm. xa xa
- Chiều hôm -> thời gian gợi buồn, cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn đau cô đơn của kiếp người lưu lạc, bơ vơ
- Cánh buồm thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện như một ảo ảnh đầy ám ảnh, gợi lên những khát vọng trong lòng người tha hương nhớ về gia đình, quê hương, người yêu.
- Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi quê người đất khách như con thuyền không bến không biết đến bao giờ mới được trở về mà buồn da diết
* Buồn trông cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa:
- Ngọn nước mới sa : từ trên cao đổ xuống, tan tác, bắt đầu cuộn xoáy dập vùi.
- Hoa trôi man mác: Đưa đi đẩy lại dập dềnh không biết trôi đi đâu Cánh hoa trôi ấy tượng trưng cho số phận chìm nổi trên dòng đời không biết về đâu, đến đâu
=> Kiều nhìn cánh hoa trôi trên mặt nước mà cảm thương cho số phận hoa trôi bèo nổi của mình, vô định không phương hướng, băn khoăn không biết cuộc đời mình sẽ ra sao?
* Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu
- Cỏ úa tàn héo hắt một màu xanh nhợt nhạt trải dài tít tắp của "chân mây mặt đất".
=> Nhìn màu sắc tê tái thê lương ấy, Kiều đau tê tái khi nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo tàn của mình không biết kéo dài đến bao giờ?
* Buồn trông gió cuốn – nghe tiếng sóng. 
- Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa "buồn trông"vừa lắng tai nghe. Nghe tiếng gió gào, gió cuốn mạnh làm cho sóng nước duềnh lên dữ dội, xô đập vào bờ hết lớp nọ đến lớp kia. Không phải sóng reo mà là ‘sóng kêu". Gió và sóng đang bủa vây "xung quanh ghế ngồi". Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai hoạ khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận người con gái nhỏ bé, đáng thương? 
=> Kiều "buồn trông"mà lo âu sợ hãi về một cuộc đời đầy biến động, đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt đang rình rập ở chặng đường đời phía trước. Và quả thực ngay sau lúc này, Kiều đã mắc lừa Sở Khanh để rồi phải lâm vào cảnh "thanh lâu hai lượt thanh y hai lần"
III. Tổng kết
1.Nghệ thuật:
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du vô cùng điêu luyện. Thiên nhiên thấm đẫm tâm trạng, bộc lộ tâm trạng theo quy luật tâm lí "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Đúng là cảnh lầu NB được nhìn qua tâm trạng Kiều: cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ. 
- Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại cảnh mang ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và số phận đen tối của một kiếp người trong bể trầm luân.
- Các từ láy vừa gợi tả màu sắc, hình ảnh, âm thanh lại vừa diễn tả tâm trạng con người
- Điệp từ điệp ngữ liên hoàn nhấn mạnh, khắc sâu trạng thái vô vọng, cô đơn, bế tắc đến vô tận đang chao đảo trong tâm trạng của Kiều.
2. Nội dung: Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc.
- Có thể nói đoạn thơ "Kiều ở lầu NB"như chứa đầy lệ: lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ, xót xa vì thương nhớ cha mẹ, lo sợ cho thân phận, số phận mình; lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương, chia sẻ cho nỗi đau của người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh: "Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều

Tài liệu đính kèm:

  • docKieu o lau Ngung Bich(2).doc