Có ý kiến cho rằng một trong những thành tựu quan trọng của Thơ Mới (1932 - 1945) là đã cải biến câu thơ điệu ngâm cổ điển thành câu thơ điệu nói hiện đại. Nhận định này đúng. Nhưng, cần phải thêm hai chữ: “bước đầu”. Thơ Mới chỉ bước đầu làm cuộc vượt mình khỏi điệu ngâm, mà chưa thoát được bao nhiêu. Đây đó đã có những cú vuột ra ngoài, nhưng về căn bản, Thơ Mới vẫn nằm dài dài trong vòng ôm ve vuốt của điệu ngâm. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, câu thơ hiện đại dấn thân vào một thực tại mới, những bức xúc cách tân trong lòng nó cồn cào hẳn lên. Nhưng chỉ bắt đầu từ kháng chiến chống Pháp trở đi, thơ hiện đại mới dứt khoát cự tuyệt với sự vấn vít của điệu ca ngâm dai dẳng hàng ngàn năm ấy. Câu thơ hiện đại bấy giờ mới trút bỏ hẳn lốt y phục tha thướt của điệu ngâm một cách cương quyết và tự chủ để trở thành điệu nói thực thụ. Chế Lan Viên, một thi sĩ thành tựu với cả hai thời đại thơ, có lẽ đã là người phát ngôn tự giác nhất về điều này, khi đối lập: “Xưa tôi hát và bây giờ tôi tập nói / Chỉ nói thôi mới nói hết được đời” (Trích Sổ tay thơ). Như vậy, Thơ Mới vẫn còn là “hát” (ngâm) chỉ sang thơ thời sau mới thực là “nói”.
Ghi công cho những bước bứt phá táo bạo mà thành đạt phải kể đến Trần Mai Ninh, Nguyễn Đình Thi, Hồng Nguyên, Hữu Loan, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Trung Thông v.v và không thể không kể đến Chính Hữu với Đồng chí. Từ Ngày về đến Đồng chí, có người đã xem đó là cuộc tự đính chính của tác giả trong nhận thức về hiện thực. Cũng có thể hình dung một cách khác: đó là cuộc “thau chua rửa phèn” trong thi cảm và thoát xác trong ngôn ngữ thi ca. Cái đẹp chinh phu đã tháo lui trước cái đẹp vệ quốc. Thi ảnh mỹ miều mà mòn phai xơ sáo của “áo hào hoa” và “hài vạn dặm” đã nhường chỗ cho thi ảnh mộc mà thực của “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày”. Câu thơ điệu ngâm (hát) óng chuốt lượt là đã nhường lời cho câu thơ điệu nói thô ráp mà tươi rói, vẫn hăng vị đời mà súc tích dư ba.
Hẳn vì Đồng chí có phẩm chất của một đại biểu, mà giới nghiên cứu thẩm bình vây quanh thi phẩm khá đông. Đã có nhiều khai thác thú vị từ không ít bình diện của nó. Là người đến sau, bận tâm của tôi về Đồng chí ở lần này chỉ nhằm vào cấu trúc và ngôn ngữ.
BÀI THƠ “ĐỒNG CHÍ” CỦA CHÍNH HỮU NHÌN TỪ CẤU TRÚC VÀ NGÔN NGỮ Có ý kiến cho rằng một trong những thành tựu quan trọng của Thơ Mới (1932 - 1945) là đã cải biến câu thơ điệu ngâm cổ điển thành câu thơ điệu nói hiện đại. Nhận định này đúng. Nhưng, cần phải thêm hai chữ: “bước đầu”. Thơ Mới chỉ bước đầu làm cuộc vượt mình khỏi điệu ngâm, mà chưa thoát được bao nhiêu. Đây đó đã có những cú vuột ra ngoài, nhưng về căn bản, Thơ Mới vẫn nằm dài dài trong vòng ôm ve vuốt của điệu ngâm. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, câu thơ hiện đại dấn thân vào một thực tại mới, những bức xúc cách tân trong lòng nó cồn cào hẳn lên. Nhưng chỉ bắt đầu từ kháng chiến chống Pháp trở đi, thơ hiện đại mới dứt khoát cự tuyệt với sự vấn vít của điệu ca ngâm dai dẳng hàng ngàn năm ấy. Câu thơ hiện đại bấy giờ mới trút bỏ hẳn lốt y phục tha thướt của điệu ngâm một cách cương quyết và tự chủ để trở thành điệu nói thực thụ. Chế Lan Viên, một thi sĩ thành tựu với cả hai thời đại thơ, có lẽ đã là người phát ngôn tự giác nhất về điều này, khi đối lập: “Xưa tôi hát và bây giờ tôi tập nói / Chỉ nói thôi mới nói hết được đời” (Trích Sổ tay thơ). Như vậy, Thơ Mới vẫn còn là “hát” (ngâm) chỉ sang thơ thời sau mới thực là “nói”. Ghi công cho những bước bứt phá táo bạo mà thành đạt phải kể đến Trần Mai Ninh, Nguyễn Đình Thi, Hồng Nguyên, Hữu Loan, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Trung Thông v.v và không thể không kể đến Chính Hữu với Đồng chí. Từ Ngày về đến Đồng chí, có người đã xem đó là cuộc tự đính chính của tác giả trong nhận thức về hiện thực. Cũng có thể hình dung một cách khác: đó là cuộc “thau chua rửa phèn” trong thi cảm và thoát xác trong ngôn ngữ thi ca. Cái đẹp chinh phu đã tháo lui trước cái đẹp vệ quốc. Thi ảnh mỹ miều mà mòn phai xơ sáo của “áo hào hoa” và “hài vạn dặm” đã nhường chỗ cho thi ảnh mộc mà thực của “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày”. Câu thơ điệu ngâm (hát) óng chuốt lượt là đã nhường lời cho câu thơ điệu nói thô ráp mà tươi rói, vẫn hăng vị đời mà súc tích dư ba. Hẳn vì Đồng chí có phẩm chất của một đại biểu, mà giới nghiên cứu thẩm bình vây quanh thi phẩm khá đông. Đã có nhiều khai thác thú vị từ không ít bình diện của nó. Là người đến sau, bận tâm của tôi về Đồng chí ở lần này chỉ nhằm vào cấu trúc và ngôn ngữ. * * * Cấu trúc của một thi phẩm phụ thuộc rất nhiều vào ý tưởng chủ đạo của nó. Mà ý tưởng chủ đạo bao giờ cũng triển khai thành mạch suy cảm trong toàn bài. Một câu hỏi đặt ra: mạch suy cảm trong bài Đồng chí bắt đầu từ đâu? Hỏi thế cứ như lẩn thẩn. Thì từ đầu chứ còn từ đâu nữa? Không hẳn. Hình như không phải từ đầu. Mà từ cuối. Chính thức là từ cái “đêm nay”” Khẳng định thế có gì phi lý chăng? Không. Bao giờ thơ trữ tình cũng hiện tại hoá quá khứ. Điều này đã thành quy luật. Tâm tư dù thuộc về quá khứ thì vẫn cứ phải được trình bày như là hiện tại, như đương diễn ra. Mà hiện tại trong thi phẩm chỉ có một “đêm nay”. ấy là lúc hai người lính đang “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Chỉ lát nữa, chiến sự sẽ nổ ra. Giữa họ, biết ai còn ai mất. Tình huống ấy thường xui khiến con người nhớ lại những kỷ niệm tình nghĩa, những gì đã khiến họ gắn bó với nhau. Thế là hồi ức đưa họ ngược trở về với quá khứ xa, khi quan hệ bắt đầu... rồi quá khứ gần, khi họ đã nên tình nên nghĩa... Và cứ thế, theo đường dây của kỷ niệm, hồi ức lại đưa họ về hiện tại, về lại “đêm nay”, cho họ tin cậy, cho họ thanh thản trước giây phút đối mặt với kẻ thù. Mạch tâm tư đã nảy sinh như thế. Thi phẩm cũng thành hình như thế. Nói cách khác, bằng cuộc tâm tình của đôi bạn lính bên chiến hào, bài thơ đã tìm được một hình hài phù hợp để tự định dạng cho mình.: Đêm nay rừng hoang sương muối Mạch tâm tư ấy đã chuyển tải ý tưởng chủ đạo nào? Ý tưởng về tình đồng chí. Dường như, Chính Hữu muốn thể hiện những suy cảm của mình về mối tình cao đẹp này. Đó là những khám phá sâu sắc về tình đồng chí giữa những người vệ quốc - một quan hệ vừa mới được cuộc kháng chiến khai sinh. Có phải cứ gọi nhau bằng hai tiếng “đồng chí” là hiển nhiên có tình đồng chí không? Hình như không. Phải trải bao tháng ngày, phải biết bao kỷ niệm, quan hệ mới thắm dần lên từng bước, rồi đến một ngày kia, tất cả mới kết tinh thành tình đồng chí. Chính Hữu đã khéo léo cài đặt mạch luận lý(đúc kết về quan hệ) vào mạch tâm tình (bộc bạch về tình cảm). Sự đan quyện nhuần nhuyễn và tinh vi của hai mạch này đã làm nên cấu trúc của bài thơ. Nhìn kĩ, hai mạch ấy vừa hoà vào nhau vừa dắt díu nhau đi suốt mạch thơ bởi cùng nương theo một chữđồng. Nói vui, thi phẩm đã tạc một chữ đồng đến... xương. Thoạt tiên, là đồng cảnh; quan hệ còn là xa lạ: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Những câu thơ ấy nói cùng ta rằng họ đều xuất thân nông dân, đều là con đẻ của những miền quê nghèo khó, và quan trọng hơn, họ đều ở những góc biển chân trời. Nếu không có cuộc chiến tranh này, họ sẽ vĩnh viễn là những người xa lạ, mỗi người sẽ sống riêng một số phận, người này không biết có người kia ở trên đời. Cuộc kháng chiến là cuộc hội ngộ lớn. Nó biến những người xa lạ thành thân quen. Vào lính, họ thành người đồng ngũ: Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Nhưng đồng ngũ đã là đồng chí chưa? Chưa. Thân quen thôi chưa đủ thành đồng chí. Rồi cùng với thời gian, đời sống quân ngũ cứ làm họ xích lại gần hơn : Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Đồng chí Nhiệm vụ làm họ gần kề - hai chữ “bên” và “sát” đã xoá bỏ hẳn đi cái khoảng cách vời vợi của những phương trời. Nhưng đồng nhiệm cũng chưa là đồng chí. Quân sự chỉ xoá được khoảng cách không gian, tâm sự mới xoá được khoảng cách tình cảm. Từ lẻ loi góc bể chân trời, họ đã tụ về rủ rỉ dưới một tấm chăn. Từ đồng ngũ đã thành đồng cảm. Từ thân quen giờ họ thành tri kỷ. Bấy giờ, tình đồng chí mới thực sự kết tinh. Từ “bên” bật lên như một tiếng reo, một vỡ lẽ bất ngờ, một chiêm nghiệm chín chắn. Câu thơ đột ngột ngắn lại như một kết tủa. Tình đồng chí khác nào một tinh thể lấp lánh, sau bao kỷ niệm và thời gian. ” qua “sát” đến “chung” là cả một hành trình, quan hệ đồng đội cứ đượm lên, cứ thắm dần mà thành tình đồng chí. Hai tiếng “Đồng chí Vậy là, theo chân chữ “đồng”, hai mạch luận lý và cảm xúc đã chập vào nhau, một chiều qui nạp : Đồng cảnh -> đồng ngũ -> đồng cảm -> đồng chí Xa lạ -> quen nhau -> tri kỷ ở phần sau, chúng ta còn thấy những chữ đồng - cùng khác đã vun đắp cho tình đồng chí của họ. Cùng một nỗi bận lòng như nhau về hậu phương: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày / Gian nhà không mặc kệ gió lung lay / Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Cùng sẻ chia những nỗi cơ hàn: Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh / Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi. Và đồng cam cộng khổ: Áo anh rách vai / Quần tôi có vài mảnh vá / Miệng cười buốt giá / Chân không giày. Cuối cùng, như quy nạp của mọi quy nạp, thi sĩ chỉ ra cái lõi của tình đồng chí chính là tình thương: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Tình thương là vị muối của tình người, là chất keo của mối gắn bó, là cội rễ của đức hy sinh. Thương nhau, con người có thể thuỷ chung với nhau. Thương nhau, con người có thể che chở nhau, hy sinh cho nhau. Đó là kết tinh sâu nặng nhất của quan hệ người với người. Không phải ngẫu nhiên, khi nhận thấy tình đồng chí của mình có cốt lõi là tình thương, họ không trầm mình trong hồi ức nữa, mà lập tức về ngay hiện tại. Bởi thế là đủ, tình đồng chí giữa mình và người bạn cùng chiến hào, đây đã thực sự là điểm tựa tin cậy rồi, nó hoàn toàn có thể giúp họ đối mặt với sự hà khắc của thiên nhiên và sự hiểm nguy của chiến sự: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Tin cậy cho họ thanh thản. Thanh thản khiến họ đón nhận được vẻ đẹp của vầng trăng lơ lửng treo trên đầu mũi súng. Khoảnh khắc ấy, người chiến sĩ bỗng thành thi sĩ. Như vậy, theo những mảng lớn của thi phẩm, có thể thấy một ý tưởng trọn vẹn: tình đồng chí được nảy nở trong kháng chiến, được vun đắp trong gian lao, và thành điểm tựa tin cậy khi đối mặt với nguy hiểm, bởi tình thương chính là cốt lõi của mối tình ấy. Tứ thơ là một khám phá, tình thơ là một tâm sự, mạch thơ là một hồi ức. Tất cả đã hoá thân vào nhau, nhất thể hoá trong một kiến trúc ngôn từ.* * * Làm nên kiến trúc ấy, phải kể cả thành công về chất liệu ngôn từ của Đồng chí. Có thể có những cách cảm nhận và định danh khác nhau về đặc sắc ngôn ngữ của thi phẩm này. Chẳng hạn, một ngôn ngữ giản dị. Một ngôn ngữ bám sát đời sống. Một ngôn ngữ khoẻ khoắn chắc nịch. Một ngôn ngữ rất gần với lời thường của người lính v.v Đó đều là những vẻ đẹp thực sự. Tôi muốn nói đến một khía cạnh khác thuộc về cách tổ chức ngôn ngữ hết sức ăn nhập với ý tưởng toàn bài: tính cặp đôi. Bài thơ viết về tình đồng chí, nhân vật trung tâm là một cặp đồng chí, thì còn đặc tính nào ăn ý cho bằng tính cặp đôi? Lớp từ diễn tả ý niệm cặp đôi chiếm vị thế ưu tiên. Cặp đại từ: anh - tôi luôn được dùng sóng đôi, rồi các hình ảnh, các vế câu thường song hành, song đôi để gợi ý niệm về sự bình đẳng gắn bó: quê hương anh - làng tôi, anh với tôi, tôi với anh, áo anh - quần tôi... Lớp từ diễn tả sự mật thiết, gắn kết của tình bằng hữu, tình đồng đội, tình tri kỷ: đôi, bên, sát, chung, nắm... Có những trường hợp mật độ đôi như thế rất dày, nhưng vẫn rất tự nhiên, nhuần nhuyễn : Súng / bên súng // đầu / sát bên đầu Ta có thể thấy hai vế lớn của câu đi thành cặp đôi, đã đành, mà ngay trong từng vế lớn ấy, các vế nhỏ cũng cặp kè từng đôi gắn bó với nhau! Từ “đôi” ở đây thật ý nhị, súc tích: đôi người xa lạ, đôi tri kỷ. Chẳng phải thế sao? Về số lượng, nó vẫn chỉ hai đối tượng, hai con người, như từ “hai”. Tuy nhiên, “hai” là trung tính, hai đối tượng được nói đến không nhất thiết phải chặt chẽ, mà thường nghiêng về ngẫu nhiên, rời rạc. Còn “đôi” vừa mang ý niệm số lượng, vừa bao hàm ý niệm quan hệ. Hai đối tượng phải có mối gắn bó khăng khít, hữu cơ, không thể tách rời thì mới là “đôi”. Trong đó, từng đối tượng lẻ chỉ được là mình khi đi thành đôi, xé lẻ ra, nó không còn thực là mình nữa. Ví như: “đôi mắt”, “đôi tay”, “đôi gò má”, “đôi gò bồng đảo”, “đôi đũa”, “đôi hoa tai” v.v Ta hiểu vì sao, Chính Hữu không dùng “hai” khi họ là “tri kỷ”, đã đành, mà ngay khi họ hãy còn là người “xa lạ”, cũng không dùng “hai”, cứ nhất thiết phải “đôi”. Dường như trong cảm nhận đầy tin yêu về con người và cuộc sống, thì trong những cá thể ấy, dù lúc đương còn xa lạ đối với nhau, thì từng người đã sẵn mang tâm nguyện được gắn kết, nghĩa là sẵn mang những cái mầm để sau này thành “đôi” rồi vậy. Nhưng đáng nói hơn cả vẫn là cách dùng thành ngữ và tổ chức ngôn từ theo phong cách thành ngữ. Tính chất điệu nói của lời thơ trong thi phẩm (qua giọng của những chàng trai làng ra lính) đã nhờ cậy rất nhiều vào điều này. Cụ thể là thành ngữ bốn tiếng. Thành ngữ bốn tiếng là một tổ hợp chặt chẽ gồm hai vế. Mỗi vế một đối tượng. Chúng thường thuộc về một trong hai kiểu quan hệ: tương đồng -“Mặt hoa da phấn”, “Gừng cay muối mặn”, “Một nắng hai sương”v.v, hoặc tương phản - “Ông chẳng bà chuộc”, “Trống ngược kèn xuôi", “Bồ còn thóc hết”v.v Trong một bài thơ không dài, Chính Hữu đã dùng khá nhiều thành ngữ và cụm từ theo lối thành ngữ: Nước mặn đồng chua, Giếng nước gốc đa, Rừng hoang sương muối, Đầu súng trăng treo Trong bài thơ, ta đã thấy hệ thống sự vật thường đi thành cặp đôi khá phổ biến:anh - tôi, súng bên súng, đầu bên đầu, áo - quần, tay nắm bàn tay Thì những cặp hình ảnh trong các cụm thành ngữ trên đây lại bổ sung thêm vào đội ngũ đông đảo những cặp đôi ấy, khiến cho tính cặp đôi nổi hẳn lên như một phong cách ngôn ngữ đặc thù của thi phẩm. Điều thú vị là, nhìn kĩ còn thấy, sự vật trong các thành ngữ này không chỉ luôn gắn với nhau thành cặp thành đôi. Mà quan hệ của chúng cũng nghiêng về mối tương đồng. Cho nên chúng gợi được rất nhiều về mối tương thân tương ái của những người đồng chí. Ta không khỏi ngỡ ngàng về sự ý nhị khi thi sĩ dùng thành ngữ Giếng nước gốc đa. Cặp hình ảnh này vừa là biểu tượng của tình quê hương, vừa là biểu tượng của tình đôi lứa. Những người lính ra trận, không chỉ quê hương trông đợi mà người yêu cũng trông mong. Dùng thành ngữ ấy, tâm lý của những người nông dân mặc áo lính hiện lên thật tế nhị. Họ thường ngại ngần, ngượng ngập khi phải nói đến chuyện tình yêu của mình, dù đang trò chuyện với bạn thân đi nữa. Vì thế, với thành ngữ giếng nước gốc đa, họ đã tránh được cái pha “chết người” ấy - tình yêu đôi lứa của họ đã nép sau tình quê hương một cách an toàn! Tuy nhiên, đặc sắc hơn cả, vẫn là câu kết hoàn toàn viết theo lề lối thành ngữ: Đầu súng trăng treo Câu thơ cũng gồm hai vế với hai hình ảnh. Ngoài sự chặt chẽ vốn có mà phong cách thành ngữ đem lại cho cụm từ này, tự nó cũng còn là một kiến trúc với một trật tự không thể đảo ngược, xét cả về hình ảnh lẫn âm thanh. Trước hết là trật tự hình ảnh. Một thành ngữ bốn tiếng, đôi khi hai vế có thể hoán đổi khá linh hoạt mà không ảnh hưởng lắm đến nghĩa của nó. Ví như Rồng bay phượng múa đảo thành Phượng múa rồng bay. Xem ra ở đây, chỉ có thể là Đầu súng trăng treo, súng trước trăng sau, mà không thể ngược lại. Vì sao ư? Là câu kết, nó đem lại cho mạch vận động của bài thơ một bất ngờ: toàn bài hầu như không có chi tiết sự vật nào thuộc về ánh sáng, khiến người đọc có cảm giác đang đi trong cõi âm u của dòng hồi ức về quá khứ của người lính, thì đến đây, ánh sáng đột hiện với vầng trăng treo. Vầng trăng càng ở vị trí chót cùng của bài thơ thì ý nghĩa càng giàu, bất ngờ càng lớn. Vầng trăng vừa là kết tinh sáng đẹp nhất của tình đồng chí, vừa toả sáng lên toàn bài, tô điểm cho thế giới của tình đồng chí ấy. Nếu chót cùng là hình ảnh “đầu súng” thì sao ? Thì gay nhỉ ? Song song với nó là trật tự âm thanh. Trong thành ngữ bốn tiếng, bao giờ cũng có sự đắp đổi về âm thanh giữa hai vế. Vế này bằng thì vế kia trắc. Và cũng thường hoán vị được cho nhau. Trường hợp câu kết này, thì khác. Xem chừng, trật tự ấy là tối ưu. Nhất thiết phải là Đầu súng trăng treo, trắc trước bằng sau. Bởi vì, có như vậy, bài thơ mới kết thúc bằng thanh bằng. Thanh bằng êm nhẹ, gợi được cảm giác nhẹ nhàng, êm ả. Nó mở ra một không gian đêm trăng thoáng sáng toả lan. Quan trọng hơn, nó gợi được sự thanh thản trong tâm hồn những người lính mà niềm tin cậy vào tình đồng chí sâu nặng và cao cả vừa đem đến cho họ. Thử hình dung nếu nó kết thúc bằng thanh trắc? Các cảm giác này sẽ lập tức tiêu tan. Quan hệ hướng ngoại giữa câu kết với chỉnh thể như vậy đã là đáng kể. Nhưng sẽ còn đáng nói hơn chút nữa, khi xem xét cấu trúc nội tại của nó từ trật tự biểu tượng. Đọc câu kết, từ góc độ biểu tượng, có thể thấy những cặp tương ứng với các lớp nghĩa tượng trưng: đầu súng - trăng treo, chiến tranh - hoà bình, hiện tại - tương lai, hiện thực - lãng mạn, thực tại - mơ ước... Một trật tự trước sau như thế, liệu có thể đảo ngược được không? Và, Đồng chí có thể thành một kiến trúc ngôn từ hoàn hảo không, nếu thi phẩm không được xây cất bằng một vật liệu như vậy? Hoá ra, giữa cấu trúc và vật liệu cũng có mối quan hệ... đồng chí! Chu Văn Sơn - Trường ĐHSP Hà Nội
Tài liệu đính kèm: