Cách nhìn nhận theo hướng tích cực về phân môn tập làm văn trong chương trình SGK Ngữ văn THCS

Cách nhìn nhận theo hướng tích cực về phân môn tập làm văn trong chương trình SGK Ngữ văn THCS

I - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :

Sách giáo khoa môn Ngữ Văn trong nhà trường hiện nay đã có nhiều đổi mới so với trước đây cả về nội dung và hình thức. Buộc giáo viên phải tự lựa chọn và nghiên cứu để có được một phương pháp giảng dạy tối ưu.

Năm học 2004 - 2005 là năm thứ 3 thực hiện chương trình thay sách. Song, tôi thấy đội ngũ giáo viên dạy Ngữ Văn và học sinh học môn Văn trong nhà trường đã gặp không ít khó khăn, đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Trước tình hình đó đã thôi thúc tôi học tập và nghiên cứu tổng thể phân môn này trong 3 năm giảng dạy vừa qua, đồng thời tìm hiểu và nắm bắt nội dung giảng dạy phân môn Tập làm văn ở lớp 9 tới để hệ thống kiến thức lập bảng đối chiếu giữa vòng 1 (Lớp 6 - 7) với vòng 2 (Lớp 8 - 9) về nội dung và yêu cầu của hai loại văn bản tự sự và miêu tả để giúp các đồng chí giáo viên một phần có một cái nhìn tổng thể về phân môn này.

Bên cạnh đó đề tài này cũng giúp các đồng chí giáo viên ở bộ môn khác hoặc những đồng chí chưa có điều kiện dạy ở tất cả các khối lớp cũng xác định được một cách cơ bản về hệ thống của phân môn Tập làm văn trong chương trình Ngữ Văn THCS hiện nay. Mặc dù chưa thực hiện ở lớp 9 nhưng chương trình lớp 9 ở phân môn này cũng không có gì thay đổi lớn so với các lớp dưới mà chủ yếu lặp lại những kiến thức ở lớp dưới và nâng cao đơn vị kiến thức mà thôi nên chúng ta cũng dễ dàng nắm bắt nó để chuẩn bị đón nhận và định hướng trước trong quá trình giảng dạy môn Ngữ Văn.

 

doc 14 trang Người đăng minhquan88 Lượt xem 770Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Cách nhìn nhận theo hướng tích cực về phân môn tập làm văn trong chương trình SGK Ngữ văn THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1 : Những vấn đề chung.
I - Lý do chọn đề tài :
Sách giáo khoa môn Ngữ Văn trong nhà trường hiện nay đã có nhiều đổi mới so với trước đây cả về nội dung và hình thức. Buộc giáo viên phải tự lựa chọn và nghiên cứu để có được một phương pháp giảng dạy tối ưu.
Năm học 2004 - 2005 là năm thứ 3 thực hiện chương trình thay sách. Song, tôi thấy đội ngũ giáo viên dạy Ngữ Văn và học sinh học môn Văn trong nhà trường đã gặp không ít khó khăn, đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Trước tình hình đó đã thôi thúc tôi học tập và nghiên cứu tổng thể phân môn này trong 3 năm giảng dạy vừa qua, đồng thời tìm hiểu và nắm bắt nội dung giảng dạy phân môn Tập làm văn ở lớp 9 tới để hệ thống kiến thức lập bảng đối chiếu giữa vòng 1 (Lớp 6 - 7) với vòng 2 (Lớp 8 - 9) về nội dung và yêu cầu của hai loại văn bản tự sự và miêu tả để giúp các đồng chí giáo viên một phần có một cái nhìn tổng thể về phân môn này.
Bên cạnh đó đề tài này cũng giúp các đồng chí giáo viên ở bộ môn khác hoặc những đồng chí chưa có điều kiện dạy ở tất cả các khối lớp cũng xác định được một cách cơ bản về hệ thống của phân môn Tập làm văn trong chương trình Ngữ Văn THCS hiện nay. Mặc dù chưa thực hiện ở lớp 9 nhưng chương trình lớp 9 ở phân môn này cũng không có gì thay đổi lớn so với các lớp dưới mà chủ yếu lặp lại những kiến thức ở lớp dưới và nâng cao đơn vị kiến thức mà thôi nên chúng ta cũng dễ dàng nắm bắt nó để chuẩn bị đón nhận và định hướng trước trong quá trình giảng dạy môn Ngữ Văn.
II - Phạm vi đề tài :
Đề tài tập chung nghiên cứu ở phân môn Tập làm văn trong nhà trường THCS hiện nay.
Đề tài tập trung vào việc phân tích nội dung và yêu cầu đối với người dạy và người học ở các lớp 6, 7, 8, 9 và tổng hợp những văn bản được dạy xuyên suốt về kiến thức từ lớp 6 -- > 9 . Trong quá trình nghiên cứu tôi chỉ nhấn mạnh ở hai loại văn bản tự sự và nghị luận bởi lẽ hai loại văn bản này nó có mặt trong suốt quá trình học tập, tạo dựng văn bản ở cả các khối lớp.
III - Những khó khăn thực hiện đề tài.
Khi viết đề tài này tôi gặp một số khó khăn sau :
- Thứ nhất : Người viết do hạn chế về thời gian nên việc tổng hợp thống kê còn hạn chế, mặt khác kiến thức của phân môn Tập làm văn thì lớn trong toàn bộ chương trình cải cách giáo dục THCS.
- Thứ hai : Tư liệu tham khảo còn hạn chế vì mới thực hiện chương trình mới đến lớp 8 mà đề tài đã tổng hợp hệ thống đến cả lớp 9, bên cạnh đó sách Ngữ Văn lớp 9 chưa có sách đại trà mới chỉ có sách thí điểm. Đồng thời phạm vi đề tài lại rộng nên người viết gặp nhiều khó khăn.
- Thứ ba : Về kinh nghiệm giảng dạy chương trình thay sách còn ít chủ yếu là nghiên cứu qua các tài liệu tham khảo và sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 6, 7, 8 và sách thí điểm lớp 9. Nên phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng của đề tài.
Mặc dù người viết đã gặp phải những khó khăn trên nhưng bằng sự quyết tâm và chắt lọc nội dung từ các tài liệu trong và ngoài nhà trường hi vọng sẽ đem lại kết quả nhất định giúp đồng nghiệp và học sinh định hướng tốt trong việc dạy và học Ngữ Văn trong nhà trường nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
IV - Phương pháp nghiên cứu.
Để phục vụ cho việc hoàn tất đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau :
1/. Đọc sách tham khảo trong và ngoài nhà trường.
2/. Bằng kinh nghiệm thực tế trong 3 năm giảng dạy thay sách giáo khoa mới.
3/. So sánh đối chiếu từng khối lớp, về nội dung và yêu cầu của phân môn Tập làm văn trong từng vòng : vòng 1 và vòng 2.
4/. Lập bảng đối chiếu sự tích hợp về nội dung và yêu cầu của phân môn Tập làm văn.
Phần 2 : Nội dung chính.
I - Sơ lược về cấu trúc phân môn Tập làm văn và yêu cầu đối với người học, người dạy Ngữ Văn cấp THCS .
* Nhận xét chung : 
Theo tôi chương trình Ngữ Văn THCS được cấu trúc 2 vòng : Vòng 1 từ 6 - 7 và vòng 2 lớp 8 - 9. Kiến thức và kỹ năng của 2 vòng này có lặp lại và nâng cao. Như vậy, chương trình Ngữ Văn mới có rất nhiều thay đổi khác xa với bộ sách giáo khoa cũ. Một trong sự thay đổi lớn đó là phân môn Tập làm văn. Trong 3 năm dạy học và nghiên cứu chương trình thay sách đến lớp 8 và tìm hiểu chương trình biên soạn của sách thí điểm lơp 9 thì tôi thấy mình phải tìm ra một hệ thống chương trình của phân môn này trong cả cấp học. Một mặt, tự rút cho mình kinh nghiệm trong khi giảng dạy, mặt khác cũng mong muốn phần nào giúp đồng nghiệp có một cái nhìn tổng thể về phân môn Tập làm văn.
Nói là cấu trúc chương trình được phân ra 2 vòng có đồng quy, có tích hợp ngang và nâng cao ở vòng 2. Vậy, chương trình Tập làm văn học những gì ở vòng 1 ? Nâng cao và tích hợp như thế nào ở vòng 2 ? Trong bài viết này tôi sẽ giúp bạn giải quyết được vấn đề đó.
1 - Trong chương trình lớp 6 :
Học sinh đã được học 2 tiết giới thiệu chung về văn bản và các phương thức biểu đạt sau đó đi sâu vào tìm hiểu hai loại văn bản tự sự và miêu tả.
a) Tự sự : (Kể chuyện) là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
Tự sự giúp người kể giải thích sự việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề và bày tỏ thái độ khen, chê.
b) Miêu tả : 
2 - Đến chương trình lớp 7 :
Học sinh sẽ được học thêm về các vấn đề chung của văn bản như : liên kết và mạch lạc, bố cục. Mục đích của các tiết này không phải là tìm hiểu khái niệm mà giúp học sinh thừa nhận những khái niệm đó để vận dụng vào thực hành tạo lập văn bản. Đây là những kiến thức quan trọng cho việc tạo lập văn bản bởi vì văn bản có bố cục rành mạch, hợp lý, các mạch trong văn bản có tính liên kết và mạch lạc. Chúng ta cũng cần hiểu rằng : nếu như bố cục cho thấy được cấu trúc của văn bản thì mạch lạc đề cập đến sự tuần tự, tiếp nối sắp xếp các phần của văn bản ; một văn bản mạch lạc là một văn bản không thể không có tính liên kết. Vì bố cục, mạch lạc và liên kết là những yêu cầu có quan hệ mật thiết ràng buộc và không thể thiếu trong văn bản và nhất là trong tạo lập văn bản.
Như thế là vô hình chung xét về một góc độ nào đó thì ta thấy rõ được Tập làm văn lớp 6 - 7 (Vòng 1) đã có tính kế thừa và phát triển. Chỉ mới đề cập đến văn bản tự sự và miêu tả ta đã thấy rõ tính thống nhất của chương trình.
a) Văn biểu cảm.
Văn biểu cảm là loại văn bản góp phần đắc lực vào bộc lộ giao lưu tình cảm, cảm xúc chủ quan làm phong phú tâm hồn, nâng cao phẩm giá của con người. Trong văn bản, các yếu tố biểu cảm được bộc lộ gián tiếp, hoặc trực tiếp. Song, tình cảm được được thể hiện phải là những tình cảm và thừa nhận chứ không phải tình cảm nào cũng có thể đưa vào viết thành văn bản biểu cảm.
Chương trình Ngữ Văn 7 đã giới thiệu những vấn đề chung về văn bản biểu cảm như : đặc điểm, cách làm, các dạng lập dàn ý, thái độ và tình cảm của người viết, các yếu tố tự sự, miêu tả trong văn bản biểu cảm. Sau đó mới tiến hành viết qua 3 kiểu cụ thể :
Một là : phát biểu cảm tưởng về nhân vật, sự vật.
Hai là : phát biểu cảm tưởng về tác phẩm văn học.
Ba là : Nêu cảm nghĩ về một người hoặc một sự việc có thật trong đời sống.
a1) - Kiểu bài phát biểu cảm tưởng về nhân vật, sự vật : Yêu cầu học sinh cảm tưởng những tình cảm, suy nghĩ chân thành của mình về một nhân vật, sự vật quen thuộc, gần gũi nào đó. Trong loại bài này xuất hiện các mệnh đề tương đối tự do vì không có lệnh hỏi giới hạn phạm vi mức độ. Song để giúp những học sinh trung bình và yếu thì người dạy nên có những gợi ý cụ thể thậm chí thêm cả lệnh cho câu hỏi được tường minh hơn như : Hãy nêu những suy nghĩ của em về loài cây em yêu thích nhất, hoặc hãy nêu suy nghĩ của em về thày, cô giáo ..
a2) - Kiểu bài biểu cảm đối với sự việc, con người : Yêu cầu học sinh phải chú ý đến những sự việc, con người để xuất hiện tình cảm chân thành, kèm theo cả những yếu tố tự sự và miêu tả.
Kiểu bài này được thể hiện dưới dạng các mệnh đề quen thuộc và gần gũi với học sinh như : Niềm vui của tuổi thơ, nỗi hối hận vì một lần lầm lỡ, cảm nghĩ về một tấm gương vượt khó học tập ..
a3) - Kiểu bài biểu cảm đối với tác phẩm văn học : Yêu cầu học sinh phát biểu cảm xúc chân thành của mình về một tác phẩm văn học dựa trên một quy trình sau : 
- Tác giả có thái độ và tình cảm gì ?
- Thái độ và tình cảm tác giả thể hiện ở chỗ nào ?
- Cách thể hiện tình cảm và thái độ có gì đặc sắc ?
* Để làm nổi bật có thể so sánh với những tác giả khác :
- Tác phẩm gợi cho em suy nghĩ gì ?
- Em có nhận xét gì về tác phẩm ?
- Vì sao em lại có những tình cảm và suy nghĩ ấy ?
b) Văn bản nghị luận.
Đây là kiểu bài khó với học sinh lớp 7, nó có 2 kiểu nghị luận : Nghị luận chứng minh và nghị luận giải thích.
ở từng dạng bài cụ thể đã được người viết sách đưa ra một hệ thống hướng dẫn và giảng dạy như thế nào là văn nghị luận, đề văn nghị luận, yêu cầu của bài nghị luận, lập luận và bố cục. Nhìn chung những vấn đề này đều gần gũi với học sinh. Tuy nhiên, cũng cần làm rõ nghị luận chứng minh và nghị luận giải thích ở một phương diện nào đó là những thao tác độc lập nhau nhưng lại liên quan mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau vì thế người dạy phải giúp học sinh hiểu rõ được tính thuyết phục mà chỉ có chứng minh không có giải thích và ngược lại. Nên học sinh làm tốt được kiểu bài nghị luận dù chứng minh, hay giải thích thì phải có đủ lý lẽ và dẫn chứng để giải quyết vấn đề.
3 - Chương trình lớp 8 :
Học sinh lại được học thêm một số đặc điểm chung về văn bản như tính thống nhất về chủ đề của văn bản, bố cục của văn bản, xây dựng đoạn trong văn bản, chuyển đoạn trong văn bản. Khi dạy những bài này người dạy giúp học sinh tái hiện những đặc điểm và cách tạo lập văn bản ở chương trình 6, 7 từ đó hiểu được những vai trò, ý nghĩa của chủ đề, bố cục và đoạn trong văn bản. Đây là những kiến thức quan trọng tạo điều kiện cho 
học sinh tạo lập văn bản có chủ đề rõ ràng bố cục rành mạch, hợp lý, các đoạn các phần có tính liên kết.
a) Văn bản tự sự : 
Văn bản tự sự đã được học kỹ ở lớp 6 nay được hoàn thiện và nâng cao trong chương trình lớp 8. Học sinh được mở rộng thêm về đặc điểm và yêu cầu của văn tự sự như : tóm tắt tác phẩm tự sự, vai trò của các yếu tố miêu tả, biểu cảm trong tự sự, luyện tập kết hợp với miêu tả, biểu cảm, đánh giá, kể chuyện theo ngôi kết hợp với miêu tả và biểu cảm. Từ đó yêu cầu học sinh lớp 8 phải tạo lập được những bài văn tự sự đan xen hoặc kết hợp với miêu tả, biểu cảm.
Kiểu bài tự sự kể người, kể việc, kể lại những cảm xúc trong tâm hồn. Đây là những kiểu bài quen thuộc với học sinh. Kể chuyện đời thường là kể lại những câu chuyện diễn ra hoặc có thể diễn ra trong đời sống thường ngày nghĩa là kể về người thật, việc thật, những cảm xúc có thật mà chính học sinh đã từng trải nghiệm. Các chi tiết phải được chọn lọc, không gặp đâu kể đấy mà phải có mục đích nhằm nổi bật chủ đề, có ý nghĩa, gây ấn tượng cho người đọc khi kể dạng bài này cho phép người kể có các yếu tố tưởng tượng hư cấu. Song chỉ dùng nó một mức độ vừa phải không được đánh mất tính chân thực của câu chuyện. Vì vậy các em không chỉ biết kể người, kể vật một cách đơn thuần mà còn biết làm cho bài văn tự sự của mình phong phú, hấp dẫn nhờ vào việc kết hợp kể với tả và bộc lộ được những tình cảm, suy nghĩ chân thành, đánh giá chủ quan của mình về người, việc được kể.
b) Văn bản thuyết minh.
Đây là kiểu bài mới lạ lần đầu tiên học sinh được làm quen. Nhưng nó lại là văn bản gặp nhiều trong cuộc sống. Ví dụ : Thuyết minh cấu tạo, tính năng, tác dụng, cách dùng và bảo quản một thứ đồ vật nào đó.
Như vậy là thuyết minh đã bao hàm các yếu tố giới thiệu, trình bày, giải thích.
c) Văn bản nghị luận.
Học sinh đã được học ở lớp 7, nay ở chương trình lớp 8 giúp học sinh nhận thức thêm về sự tồn tại và vai trò của các yếu tố tự sự, miêu tả và biểu cảm trong một văn bản nghị luận. Ngoài ra, chương trình cũng dành thời gian đê cung cấp thêm những kiến thức về luận điểm, mối quan hệ giữa luận điểm với vấn đề cần giải quyết trong bài văn nghị luận và mối quan hệ giữa luận điểm với nhau cũng như cách trình bày luận điểm trong văn bản nghị luận và luyện tập xây dựng và trình bày luận điểm. Yêu cầu học sinh phải sắp xếp các lý lẽ và dẫn chứng đó trong một bố cục hợp lý và chặt chẽ.
Ngoài ra chương trình Tập làm văn lớp 8 còn có loại văn bản điều hành được tập trung và cụ thể ở 2 dạng văn bản tường trình và văn bản thông báo 
4 - Chương trình Tập làm văn lớp 9.
Chương trình Tập làm văn lớp 9 có cấu trúc gồm 4 kiểu văn bản : thuyết minh, tự sự, nghị luận và hành chính - công vụ.
Tập 1 tập trung vào 2 nội dung lớn :
- Một là : tiếp tục giới thiệu về văn thuyết minh với yêu cầu kết hợp phương thức biểu đạt này với các phương thức khác, như sử dụng biện pháp nghệ thuật trong thuyết minh, miêu tả trong thuyết minh.
- Hai là : tiếp tục học về văn bản tự sự với các nội dung phát triển cao hơn với nội dung đã học ở các lớp dưới. Cụ thể là tự sự với miêu tả nội 	tâm ; tự sự kết hợp với nghị luận ; đối thoại và độc thoại trong văn bản tự sự, người kể trong văn bản tự sự 
ở Tập 2 tập trung vào 2 nội dung lớn :
- Một là : văn nghị luận xã hội (về một hiện tượng, một sự việc trong đời sông, hoặc về một vấn đề tư tưởng, đạo đức) và nghị luận văn học (nghị luận về nhân vật, về đoạn thơ, bài thơ).
- Hai là : tiếp tục học và rèn luyện một số kĩ năng như : phân tích tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, củng cố các kỹ năng, tổng hợp các kỹ năng bằng việc thực hành qua các bài viết. Ngoài ra, còn học một số văn bản hành chính công vụ như : Biên bản, hợp đồng, thư (điện), chúc mừng, hoặc chia buồn.
a) Văn bản tự sự :
Đây là sự phát triển các phương thức biểu đạt và kiểu văn bản so với vòng 1. Vòng 1 học các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm một cách độc lập thì ở vòng 2 các phương thức không được tách rời mà chúng luôn luôn kết hợp với nhau.
b) Văn bản lập luận :
ở chương trình lớp 7, lớp 8 đã đề cập rồi thì ở lớp 9 học sinh vừa được ôn tập những kiến thức cơ bản như luận điểm, trình bày luận điểm vừa nâng cao ở chỗ chỉ ra sự kết hợp giữa lập luận với các yếu tố tự sự biểu cảm và miêu tả. Ngữ Văn lớp 9 kết thúc vòng 2 ( Chương trình cải cách sách giáo khoa mới và đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn ở THCS) bằng hai loại nghị luận xã hội và nghị luận văn học với bốn dạng cụ thể :
b1) - Nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống.
b2) - Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý.
b3) - Nghị luận về một nhân vật văn học.
b4) - Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
c) Văn bản điều hành. (Biên bản, hợp đồng, thư, điện, chúc mừng, chia buồn).
Đây là loại văn bản chỉ mang tính chất khuôn mẫu là chính. Tuy không khó nhưng học sinh lại dễ sai sót và có thái độ coi thường khi học. Giáo viên cần phải đưa học sinh vào những tình huống sát thực tạo thành nhu cầu học của học sinh để sau này trong cuộc sống có thể sử dụng nó một cách thành thạo. Đây là loại văn bản có tính ứng dụng cao trong cuộc sống nhưng giáo viên không chú ý, khi dạy đơn điệu sẽ dẫn đến nhàm chán trong học sinh.
II - Tổng hợp nội dung và yêu cầu thông qua cấu trúc phân môn Tập làm văn của vòng 1 và vòng 2.
1 - Nhận xét đánh giá.
Toàn cấp học, phân môn Tập làm văn học sinh được học và tạo lập 5 kiểu văn bản : Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh,lập luận và điều hành (hành chính - công vụ) mỗi vòng đều học cả năm kiểu văn trên, nhưng vòng 2 (lớp 8 - 9) có nâng cao. Vậy vòng 2 nâng cao ở chỗ nào ? Với ý đồ của bài viết này tôi muốn làm rõ ở một số kiểu bài chủ yếu.
Qua quá trình nghiên cứu thì tôi thấy các kiểu văn bản ở vòng 1 được lặp lại ở vòng 2. Chủ yếu là văn bản tự sự và văn bản lập luận. Tính nâng cao của hai kiểu văn bản này thể hiện ở sự kết hợp giữa chúng với các yếu tố miêu tả, biểu cảm và nghị luận. Ngoài ra, còn thể hiện ở yêu cầu về kỹ năng viết bài, độ dài về nội dung, văn bản có kiến thức phức tạp hơn.
Mục đích cuối cùng của các nhà viết sách là muốn học sinh biết vận dụng để viết một kiểu văn bản nào đó. Chính vì vậy ở mỗi bài đều có 2 phần : nhận diện và luyện tập tạo văn bản.
2 - Bảng hệ thống ở 2 kiểu bài tự sự và nghị luận. (Bảng ở trang 11).
Vậy là, khi nhìn vào Bảng thống kê chúng ta dễ dàng hệ thống và phân biệt được từng đơn vị kiến thức ở từng khối lớp. Khi thấy được toàn bộ chương trình từ vòng 1 đến vòng 2, giáo viên dễ dàng định hướng giúp học sinh ở từng khối lớp đồng thời bản thân giáo viên cũng tự tin hơn trong việc tổ chức cho học sinh học tập và tạo văn bản thông qua hai mặt nội dung và yêu cầu theo hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn lẻ độc lập đến kết hợp nhiều phương thức biểu đạt.
Văn bản
Vòng 1
Vòng 2
Lớp 6 & 7
Lớp 8
Lớp 9
Tự sự
1 - Nội dung :
- Thế nào là văn bản tự sự.
- Sự việc và sự vật.
- Chủ đề bài tự sự.
- Lời văn đoạn văn tự sự.
- Ngôi kể và lời kể.
- Cách làm bài tự sự.
- Dàn bài văn tự sự.
- Kể chuyện đời thường.
- Kể chuyện tưởng tượng.
2 - Yêu cầu :
- Tự sự như kiểu bài độc lập.
- Cốt truyện đơn giản.
- Dung lượng bài viết từ 1 - 3 trang giấy.
1 - Nội dung :
- Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
- Cách làm bài tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm.
2 - Yêu cầu :
- Tự sự có đan xen, kết hợp giữa các phương thức biểu đạt.
- Cốt truyện phức tạp dần.
- Dung lượng bài viết tăng lên từ 3 - 5 trang giấy.
1 - Nội dung :
- Tự sự kết hợp với miêu tả (nội tâm) và nghị luận.
- Cách làm bài tự sự kết hợp với miêu tả và nghị luận.
2 - Yêu cầu :
- Tự sự đan xen, kết hợp giữa các phương thức biểu đạt.
- Cốt truyện phức tạp hơn nhiều.
11
- Dung lượng bài viết tăng từ 4 - 6 trang giấy.
Nghị luận
1 - Nội dung :
- Thế nào là văn bản nghị luận.
- Đề văn nghị luận.
-Yêu cầu của bài nghị luận.
- Lập luận và bố cục.
- Nghị luận chứng minh.
- Nghị luận giải thích.
2 - Yêu cầu :
- Nghị luận được xem như một kiểu bài độc lập.
- Thao tác đơn giản : chứng minh và giải thích. 
- Dung lượng bài viết từ 1->3 trang giấy
1 - Nội dung :
- Ôn tập luận điểm luận cứ.
- Cách làm bài nghị luận.
- Nghị luận + biểu cảm.
- Nghị luận + tự sự và miêu tả.
2 - Yêu cầu :
- Thấy sự kết hợp các phương thức.
- Vấn đề nghị luận phức tạp hơn.
- Dung lượng bài viết từ 3 - 5 trang.
1 - Nội dung :
- Thao tác phân tích và tổng hợp.
- Nghị luận về một hiện tượng, sự việc.
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lý.
- Nghị luận về một nhân vật văn học.
- Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
2 - Yêu cầu :
- Thấy sự kết hợp các phương thức.
- Vấn đề nghị luận phức tạp và đa dạng hơn. 
- Dung lượng bài viết từ 4 - 6 trang.
Phần 3 : Kết luận chung.
Trên đây là một số vấn đề về thể loại làm văn trong phân môn Tập làm văn trong chương trình thay sách giáo khoa mới THCS.
Qua việc khảo sát, trắc nghiệm tìm ra kết quả việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh tôi thấy phân môn Tập làm văn có đặc thù riêng mà nhu cầu người dạy cần phải biết hệ thống của toàn chương trình của cấp học vì vậy qua đề tài tôi không có tham vọng đề cập nhiều về kiến thức từng bài cụ thể mà chỉ khái quát lại toàn bộ chương trình ở phân môn này về những vấn đề nội dung và yêu cầu kiến thức trong bộ sách Ngữ Văn để từ đó người dạy có thể tích hợp trong công tác giảng dạy.
Mặt khác, bài viết này tôi viết trên cơ sở về tích hợp ngang đối với từng khối lớp và kết hợp với tích hợp dọc của cả chương trình phân môn Tập làm văn từ lớp 6 đến lớp 9, hy vọng ý tưởng này được bạn đọc đồng cảm và góp ý cho tôi về những thành công của đề tài và mặt hạn chế để chúng ta dần hoàn thiện về phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn trong nhà trường hiện nay theo hướng tích cực, chủ động.
Thông qua nội dung của đề tài này tôi có một số kiến nghị sau :
1 - Quản lý nhà trường và Phòng Giáo dục thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ Văn để từ đó chỉ ra những mặt ưu điểm và tồn tại trong quá trình giảng dạy.
2 - Giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn phải thường xuyên rút đúc những kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của mình để thấy được những mặt hạn chế, vướng mắc đồng thời có kế hoạch bổ sung kiến thức.
- Giáo viên phải tạo cho mình một thói quen nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa chương trình để từ đó tổng hợp so sánh ở từng khối lớp, từng bài dạy thông qua đó định hướng bằng những phương pháp dạy cho phù hợp với yêu cầu của môn học trong nhà trường hiện nay.
- Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu giáo dục hiện nay đặc biệt là mục tiêu dạy học Ngữ Văn trong nhà trường THCS cho phù hợp với tình hình mới là giáo dục đào tạo ra những con người mới bằng những phương pháp mới đáp ứng trong tình hình phát triển đất nước hiện nay.
3 - Giáo viên Ngữ Văn nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng phải cụ thể bằng phương pháp ra đề kiểm tra thông qua những hệ thống câu hỏi đảm bảo những phần trắc nghiệm từ 30 - 40%, tự luận 60 - 70% . Nhưng phải đánh giá được chất lượng học sinh qua bài viết cụ thể.
13
Phần 4 : Đề tài có sử dụng, tham khảo 
 kiến thức của các tác giả.
1 - Tiến sĩ : Đỗ Ngọc Thống. (Viện chiến lược và chương trình giáo dục)
2 - Giáo sư : Nguyễn Khắc Phi. (Tổng chủ biên SGK môn Ngữ Văn)
3 - Nhóm tác giả : 
- PGS . TS : Vũ Nho.
- TS : Nguyễn Thúy Hồng.
- TS : Nguyễn Trọng Hoàn.
4 - Ngoài ra Đề tài còn sử dụng một số kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp.
14
Phần 5 : Phụ chú.
Đề tài :
Cách nhìn nhận theo hướng tích cực về phân môn Tập làm văn trong chương trình SGK Ngữ Văn THCS.
Phần 1 : Những vấn đề chung.
I - Lí do chọn đề tài.
II - Phạm vi đề tài.
III - Những khó khăn khi thực hiện đề tài. 
IV - Phương pháp nghiên cứu.
Phần 2 : Nội dung chính.
I - Sơ lược về cấu trúc phân môn Tập làm văn và yêu cầu với người học, người dạy Ngữ Văn THCS.
II - Tổng hợp nội dung và yêu cầu thông qua cấu trúc phân môn Tập làm văn của vòng 1 và vòng 2.
Phần 3 : Kết luận chung và kiến nghị.

Tài liệu đính kèm:

  • docngu van 9(112).doc