Chuyên đề Công tác chủ nhiệm giáo dục đạo đức học sinh

Chuyên đề Công tác chủ nhiệm giáo dục đạo đức học sinh

 Xã hội đang phát triển không ngừng, khoảng cách giàu – nghèo, nông thôn – thành thị đang dần rút ngắn lại. Song song với điều đó là văn hóa, lối sống của người Việt cũng dần bị mai một. Chuyện lí tưởng, trách nhiệm, lễ nghĩa giờ đây trở nên phù phiếm, xa vời với không ít người nhất là thế hệ trẻ hôm nay. Nguyên nhân do đâu? Vâng, ai cũng một lần bước qua tuổi 13 cái tuổi dang học đòi và muốn làm người lớn với sự hiếu động , tò mò. Nếu không được quan tâm đúng mức của cha mẹ, thầy cô, xã hội thì cài lứa tuổi “ áo trắng học trò” rất dễ bị vẩn đục.THực tế không quá khó khăn để bắt gặp một lời nói xấu, một hành động không đẹp, không bình thường ở chốn học đường, tất nhiên đó là học sinh cá biệt. Đây là đối tượng lêu lỏng ham chơi, ham mê Internet hơn bài học, trọng “đại ca” hơn kính mến thầy. Mọi lời dạy bảo của cha mẹ, thầy cô chỉ như nước đổ lá khoai. Không dừng lại ở đó, những học sinh này có thể cãi thầy, đánh bạn, dính vào những tệ nạn xã hội. Đó thật sự là nỗi lo lắng của PHHS cũng như của nhà trường. Về phía nhà trường đã có các hình thức kỉ luật, cảnh cáo,kể cả đuổi học nhưng hình như tình hình này vẫn chưa được cải thiện. Những cuộc họp PHHS không phải là tiếng cười, niềm vui khi nhà trường thông báo kết quả học tập và rèn luyện mà là những lời than vãn,lo âu của những người làm cha mẹ.

 

doc 11 trang Người đăng minhquan88 Lượt xem 852Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Công tác chủ nhiệm giáo dục đạo đức học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH
PHẦN I : MỞ ĐẦU
 1. Lí do chọn đề tài :
 Xã hội đang phát triển không ngừng, khoảng cách giàu – nghèo, nông thôn – thành thị đang dần rút ngắn lại. Song song với điều đó là văn hóa, lối sống của người Việt cũng dần bị mai một. Chuyện lí tưởng, trách nhiệm, lễ nghĩa giờ đây trở nên phù phiếm, xa vời với không ít người nhất là thế hệ trẻ hôm nay. Nguyên nhân do đâu? Vâng, ai cũng một lần bước qua tuổi 13 cái tuổi dang học đòi và muốn làm người lớn với sự hiếu động , tò mò. Nếu không được quan tâm đúng mức của cha mẹ, thầy cô, xã hội thì cài lứa tuổi “ áo trắng học trò” rất dễ bị vẩn đục.THực tế không quá khó khăn để bắt gặp một lời nói xấu, một hành động không đẹp, không bình thường ở chốn học đường, tất nhiên đó là học sinh cá biệt. Đây là đối tượng lêu lỏng ham chơi, ham mê Internet hơn bài học, trọng “đại ca” hơn kính mến thầy. Mọi lời dạy bảo của cha mẹ, thầy cô chỉ như nước đổ lá khoai. Không dừng lại ở đó, những học sinh này có thể cãi thầy, đánh bạn, dính vào những tệ nạn xã hội. Đó thật sự là nỗi lo lắng của PHHS cũng như của nhà trường. Về phía nhà trường đã có các hình thức kỉ luật, cảnh cáo,kể cả đuổi học nhưng hình như tình hình này vẫn chưa được cải thiện. Những cuộc họp PHHS không phải là tiếng cười, niềm vui khi nhà trường thông báo kết quả học tập và rèn luyện mà là những lời than vãn,lo âu của những người làm cha mẹ.
 Vậy, bên cạnh việc cung cấp tri thức cho học sinh, giáo viên, những người làm công tác giáo dục phải làm gì để cho những học sinh cá biệt nhận ra sai lầm và sống tốt hơn, có ích hơn cho gia đình và xã hội.
 Xuất phát từ lòng yêu nghề, mến trẻ và trách nhiệm của người thầy đứng lớp không những dạy học sinh về tri thức mà còn dạy cho các em đạo đứùc, lẽ sống giúp cho các em có một nhân cách tốt trở thành người có ích cho xã hội đã khiến cho chúng tôi trăn trở, suy nghĩ và tổ văn, sử, địa của trường THCS Mỹ Quang thống nhất viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “ Giáo dục học sinh cá biệt “
 Để làm được đề tài này,chúng tôi đã dựa trên những điều kiện thuận lợi có được. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo nhà trường, sự cố gắng , nhiệt tình của các GVCN. Tuy nhiên vì thời gian không cho phép, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu đề tài trong phạm vi từ đầu năm học đến giữa HK II( 2007 – 2008 )
 Cấu trúc đề tài gồm ba phần :
Mở đầu.
Nội dung thực hiện và kết quả.
Kết luận. 
 2. Nhiệm vụ của đề tài : 
 Chúng tôi tiến hành thực hiện một lớp 9 ( cuối cấp ) bằng các họat động và thông số cụ thể. Tiến hành phân công theo dõi từng đối tượng học sinh cá biệt .
 3. Phương pháp nghiên cứu: 
 Trong quá trình làm công tác CN và giảng dạy của các GVBM tiến hành theo dõi, nghiên cứu thực hiện các biện pháp đã thống nhất đối với từng đối tượng HS , sau đó bàn bạc thống nhất các phương án tiếp theo, cứ như thế chúng tôi theo dõi và thực hiện phương pháp trên từng em một .
 4. Mục đích nghiên cứu :
 Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi không có tham vọng gì hơn là muốn tìm ra một giải pháp thích hợp để làm thay đổi nhận thức của một bộ phận học sinh cá biệt – nhất là trong tình hình hiện nay.
 5. Kế họach nghiên cứu : 
Nội dung công việc
Địa điểm
Thời gian
-Thống nhất chọn đề tài
- Tiến hành thực nghiệm 
- Viết dàn ý đề tài
- Hoàn thành đề tài
Tại trường
Lớp 9A3
Ở nhà
Ở nhà
07 – 09 – 2007
Thường xuyên
23-02-2008
15-03-2008
 PHẦN II : NỘI DUNG THỰC HIỆN VÀ KẾT QUẢ .
 A.Một số vấn đề còn tồn tại trong thực tế họat động giáo dục :
 1. Thực tế hiện tại :
 Từ thực tế họat động các nhà giáo dục đều thừa nhận rằng trong số các học sinh của mình luôn luôn có sự phân hóa phức tạp về mức độ phát triển trí tuệ, về phẩm chất đạo đức, về thể chất do rất nhiều nguyên nhân khác nhau trong qua trình tiếp thu giáo dục, tự giáo dục của mỗi con người.Trong sự phân hóa đó có một bộ phận tiết bộ vượt lên so với bạn bè cùng trang lứa nhưng có một số thành phần rơi vào tình trạng trì trệ chậm phát triển tụt hậu khá xa, nếu như không có sự quan tâm giúp đỡ kịp thời. Tuy vậy trong lĩnh vực giáo dục vẫn còn nhiều tồn tại( về nhận thức lý luận về hình thức tổ chức, về biện pháp giáo dục )
 2. Phân hóa về học sinh cá biệt:
 Dựa trên các đặc điểm các tính khác nhau của học sinh biểu hiện ra các hành vi trong học tập, sinh hoạt ta có thể phân loại như sau:
Chất lượng trí tuệ : Thông minh hay ngu đần.
Nhịp điệu hoạt động trí tuệ: Nhanh chậm hoặc uể oải.
- Thái độ học tập: Có khát vọng hiểu biết hoặc nhu nhược trong học tập; hiếu học hoặc thờ ỏ với trí thức.
- Biểu hiện các tính cách trong học tâp: Vâng lời hay bướng bỉnh, bình tĩnh hay không tự kiềm chế được, nhân hậu hay độc ác.
 Trên cơ sở đó đối với mỗi lọai cần phải dùng phương pháp giáo dụcthích hợp. Ví như đối với học sinh thông minh, có khát vọng hiểu biết, có khả năng học tập thì cần bồi dưỡng bằng tri thức khoa học và phải đối xử thận trọng với chúng; không tham lam nhồi nhét kiến thức làm cho chúng kiệt sức trước lứa tuổi. Trẻ thông minh nhưng chậm chạp thì phải gợi mở và “thúc dục”chúng. Còn đối với học sinh thông minh nhưng bướng bỉnh không tự kiềm chế thì phải nhẫn nại, bền bỉ, kiên trì, uốn nắn, giáo dục . Đối với đối tượng chậm chạp, uể oải thì phải tính đến các nhược điểm của chúng, không vội vã và nêu lên những yêu cầu quá khắc khe trái lại phải khoan dung, độ lượng khuyến khích,nâng đỡtừng tiến bộ của chúng.
 B. Phương pháp giáo dục :
 Trong thời gian qua vấn đề giáo dục HS cá biệt vẫn được nhiều nhà giáo dục quan tâm tìm tòi cách giải quyết, đóng góp, phát triển thêm những phuơng pháp tổ chức giáo dục mới cụ thể là : 
 1.Phải đặt việc đối xử cá biệt trong mối quan hệ của học sinh với tòan cảnh xã hội mà chúng đang sống và phát triển nhằm phát huy, nâng cao tính tích cực xã hội, tính tự giác và khả năng giáo dục tự hoàn thiện của mỗi cá nhân .
 2.Thầy giáo và nhà trường phải chú trọng tổ chức, kết hợp các lực lượng giáo dục để thực hiện một cách sáng tạo trên cơ sở hiểu biết các đặc điểm cá nhân của HS.
 3.về phương pháp vì tổ chức giáo dục: Phải hết sức mền dẻo, linh hoạt trên cơ sở đảm bảo mục đích, định hướng chung của giáo dục.
 4. Muốn thu hút học sinh tích cực hoạt động cần khêu gợi, kích thích hứng thú của học sinh đối với hoạt động, phải tìm hiểu nghiên cứu chúng trong các hoạt động học tập, vui chơi, giao lưu giao tiếp.
 5. giáo viên phải hòa nhập vào đời sống học sinh khá biệtđối thoại với chúng, thiết lập mối quan hệ mật thiết và được chung tin tưởng.
 C. Những nguyên nhân khiến cho học sinh khó giáo dục:
Nguyên nhân xã hội:
 Xã hội ngày càng phát triển đời sông ngày càng được cải thiện, học sinh càng tỏ ra đề cao mình hơn thậm chí ngay cả trong môi trường gia đình mà chúng ta tiếp xúc hàng ngày. Nói một cách khác môi trường xã hội là gần gũi nhất luôn luôn để lại ấn tượng sâu đậm đối với học sinh lứùa tuổi đang phát triển. Vậy là trách nhiệm trực tiếp không phải là đứa trẻ mà thuộc về các cơ quan xã hội, các tổ chức đoàn thể.Chúng ta cần phải lành mạnh hóa môi trường giáo dục tạo điều kiện chúng tiếp thu các chuẩn mực xã hội. Vì vậy việc phòng ngừa các vi phạm pháp luật, xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng nề nếp, chất lượng giáo dục gia đình, nâng cao dân trí đều gắn liền với chất lượng giáo dục.
Nguyên nhân tâm lý:
 Học sinh cá biệt thường có những nhu cầu không bình thường, những hứng thú không lành mạnh, chúng thường lựa chọn lối sống khác thường mà gia đình và nhà trường khó chấp nhận. Và chúng phản đối, chống đối một cách vô ý thức rồi sau đó những đứa trẻ hư đốn nhất sẽ bị đuổi ra khỏi trường lớp.Một số đối tượng quay lại trả thù nhà trường, xỉ nhục giáo viên hoặc gây rối.Tình trạng trên một phần là do tâm lý học sinh nhưng chủ yếu là do việc giáo dục không đúng gây ra, nhất là khi thầy cô giáo đơn giản hóa vấn đề hoặc vụng về khi áp dụng phương pháp giáo dục. Nghiêm trọng hơn là sự trách phạt quá nghiêm khắc do định kiến thành kiến của các thầy cô giáo.Có khi ngẫu nhiên chung vi phạm gì đo lại bị quy chụp là cố ý, nếu không thừa nhận thì bị xem là ngoan cố, lì lợm.
 Nguyên nhân giáo dục:
 Đôi khi giáo viên thiếu kinh nghiệm nhưng lại không chuẩn bị đủ về kiến thức kỹ năng nên giaiû quyết các tình huống giáo dục bằng thói quen, bằng trực giác vì thế khó tránh khỏi sai lầm. Sự non kém về sư phạm cũng trực tiếp tạo ra hiện tượng khó giáo dục. Thầy cô ra lệnh cấm đoán nhiều cách kích thích học sinh tò mò.Thế là cái vòng lẩn quẩn xuất hiện: Thầy cô cha mẹ liên tục nhắc nhở, dọa nạt nhưng trẻ liên tục vi phạm bị khiển trách liên miên hết ở nhà rồi ở trường. Hệ quả là chúng chán nản rã rời có hết phản ứng này đến phản ứng khác.Chúng càng phản kháng thì các nhà sư phạm non tay lại canøg ra sức khẳng định uy quyền( Lẽ ra phải đối thoại thông cảm với các em) dùng kỹ luật và bạo lực để ép buộc chúng vào khuôn phép, thế là mọi sự giáo dục trở nên vô bổ.
	Tóm lại việc nghiên cứu phát hiện đúng các nguyên nhân khó giáo dục ở trẻ là vô cùng quan trọng đối với tất cả các giáo viên và tất cả các bậc cha mẹ.
 D. Những đặc điểm tâm lý ở học sinh cá biệt:
 1. Biểu hiện cụ thể ở học sinh cá biệt là sự thỏa mãn rất không bình thường các nhu cầu về vật chất, tinh thần mà sự thõa mãn nhu cầu này lại phản ảnh sự phát triển lệch lạc về các nhu cầu đó.
 Ví dụ : các em muốn tự khẳng định mình nên thường làm những điều khác thường ,càng ngày càng bị xa lánh, ghét bỏ rồi dấn sâu vào hành vi sai trái khác. Mặt khác, chúng còn chứng tỏ rằng thích sống tự lập, không phụ thuộc vào bất cứ ai ( kể cả gia đình) học làm người lớn qua tác phong hút thuốc, phát ngôn bừa bãi,
 2. Theo thời gian, các ý thích lệch lạc, các sai lầm tích tụ lại hình thành ở chúng tâm lí phản xã hội, chống đối mọi điều bình thường ( về ăn, ở, quan he,ä giao tiếp, văn hóa) của xã hội và chính có nhu cầu sai trái, trái với phẩm chất tích cực, chúng tự tuyệt với các phẩm chất tốt, ngày càng sa vào những thiếu sót và khuyết điểm. Mặc dù chúng vẫn biết bản thân chúng làm sai nhưng vẫn tìm cách che đậy những khuyết điểm sai trái, chúng vẫn thanh minh , biện hộ cho mình, chúng vẫn đến lớp, vẫn đi học nhưng đầu óc không để vào việc học và vì thế học kém chứ không phải năng lực trí tuệ kém cỏi. Đến mức độ này phương pháp giáo dục của nhà trường, PHHS đều trở nên vô hiệu và bất lực.
 3. Một trong những tính cách đặc trưng của học sinh cá biệt còn là thái độ bất chấp mọi ảnh hưởng giáo dục, coi thường hoặc phủ nhận các thầy cô giáo. Nguyên nhân sâu xa hình thành thái độ này phần lớn là do nếp sống, hậu quả lối sống sai trái của gia đình: do mâu thuẫn giữa cha mẹ và người lớn, thậm chí do sự va chạm về nhân cách của họ như uống rượu, phát ngôn bừa bãi) . Tình trạng này không phải xuất hiện cùng một lúc mà phát triển dần để lại cho trẻ những vết hằn, những mất mát trong tình cảm và cuối cùng là đổ vỡ niềm tin đối với người lớn.
 E. Các phương pháp có tính đặc thù dùng trong giáo dục học sinh cá biệt :
 1. Phương pháp xây dựng lại niềm tin :
 Bình thường trẻ em có niềm tin vào thế giới người lớn, yêu thương hồn nhiên ông, bà, cha, mẹ, anh chị em và mọi người chung quanh. Vì những lí do xã hội và hòan cảnh phức tạp của cá nhân mà một số học sinh niềm tin của chúng bị phai nhạt hoặc đổ vỡ, óan hận gia đình, mặc cảm về chính bản thân. Vì vậy các nhà sư phạm phải từng bước khôi phục lại giúp các em hiểu đúng quy tắc xã hội, gợi lên lòng tin của chúng đối với mọi người, đối với cuộc sống.
 Chúng ta có thể áp dụng các phương pháp giáo dục đạo đức, nhân cách thông thường như trò chuyện, đối thọai, nêu gương, Nên tổ chức họat động như lao động , lễ hội, văn nghệ, sinh họat ngọai khóađể các em tiếp xúc với tập thể, dần danà, chúng sẽ thấy được cái đúng, cái sai và tự hoàn thiện mình .
 Thế giới tâm hồn của trẻ cực kì phong phú, nhạy cảm. Vì vậy, các nhà sư phạm phải khéo léo, phải tinh thông, có như vậy,các em mới tin, tin vào bản thân, vào người khác, vào cuộc sống.
 2. Phương pháp khuyến khích, trừng phạt:
 a. Khen thưởng :
 Có nhiều người cho rằng không nên áp dụng hình thức khen thưởng đối với những đối tượng cá biệt này. Tuy vậy,trong giáo dục, sự nâng đỡ, khuyến khích cái tốt, cái thiện dù là nhỏ nhưng rất cần cho sự khôi phục niềm tin của con người lầm lỗi. Đặt biệt, đối với học sinh, thiếu thốn tình cảm gia đình thì sự yêu thương thông cảm, khuyến khích có sức mạnh cảm hóa lớn.
 b. Trừng phạt : cần đảm bảo :
 - Phê phán, chỉ trích sai trái có căn cứ và cụ thể.
 - Cần phê phán kèm theo cách sửa chữa hành vi sai lầm và hậu quả của việc tái phạm.
 Mức độ, nội dung, hình thức trừng phạt phải nhằm mục đích giáo dục vì quyền lợi cá nhân các em và tập thể , củ gia đình, của lớp học. Khi thực hiện phải được dư luận của lớp của nhóm,.. đồng tình ủng hộ, phải nhạy bé, linh họat, thay đổi hình thức khi cần thiết. Việc thực hiện trừng phạt không nên hấp tấp, vội vàng, mà trừng phạt phải đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng, đúng mức sẽ rất có tác dụng giáo dục.
 G. Kinh nghiệm xây dựng mô hình giáo dục HS cá biệt :
 Tổ chức giáo dục trong nhà trường gồm các thành phần theo quy định và thực hiện chức trách được giao theo quy định. Ngòai ra, cần thực hiện một số vấn đề cụ thể sau 
BGH nhà trường : phải đi sâu, đi sát tình hình họat động củ a lớp của GVCN- nhất là những HS cá biệt để có kế họach kết hợp với các cơ quan chức năng ,gia đình có kế họach giúp đỡ toàn diện cho học sinh. Cần vạch ra kế họach giáo dục một cách cụ thể , chi tiết, phù hợp với từng đối tượng HS cá biệt và được HĐSP đồng thuận.
 GVCN : là người có tâm và là người biết kiên nhẫn, biết thông cảm cho hoàn cảnh của mỗi em, phải giáo dục HS bằng cả lòng kiên nhẫn và trái tim nhân hậu của mình. Phải trực tiếp làm gương cho các em. Biết động viên , khen thưởng kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ.
Tập thể lớp : Cần phải đưa tập thể lớp vào một khuôn khổ có nề nếp, một tập thể đòan kết tốt, chính tập thể biết đoàn kết tốt và biết yêu thương , nhường nhịn nhau đó sẽ cảm hóa HS cá biệt tốt nhất và hiệu quả nhất, sống trong một tập thể như vậy các em sẽ thấy mình yên tâm hơn, sống tốt hơn và hạn chế được những sai lầm đáng tiếc từ tâm lí lứa tuổi.
Cha mẹ HS và Hội cha mẹ HS : là điều kiện cần để hạn chế và giáo dục HS cá biệt vì HS hình thành nhân cách chính từ môi trường sống ở gia đình. Cha mẹ phải thật sự gương mẫu và là chỗ dựa tinh thần cho các em nhất là những lúc các em thay đổi về tâm lí hoặc những lúc có khó khăn về mặt trình cảm.
 H. Kết quả thực nghiệm :
 Qua một thời gian thử nghiệm tại lớp 9A3 trường THCS Mỹ Quang ( Một lớp có HS cá biệt nhiều nhất ), chúng tôi nhận thấy lớp có chuyển biến tích cực qua phiếu điều tra sau :
TT
Nội dung đánh giá các hành vi sai lệch
Đầu năm
HK I
Giữa HKII
01
Lười biếng, trốn bỏ các tiết học, các họat động tập thể
05
02
01
02
Mất trật tự trong giờ học và họat động tập thể
10
05
02
03
Nói năng tục tằn, thô lỗ, thiếu văn hóa
02
01
0
04
Thiếu khiêm nhường, hỗn láo, vô lễ
0
0
0
05
Kéo bè cánh, gây gỗ đánh nhau, khống chế kẻ yếu
01
0
0
06
Gian dối trong quan hệ cũng như trong công việc.
0
0
0
07
Gây mất trật tự công cộng, làm ô nhiễm môi trường.
0
0
0
08
Hút thuốc, đánh bạc, uống rượu, tiêu phí bừa bãi
02
0
0
09
Sống cẩu thả, mất vệ sinh
01
0
0
PHẦN III : KẾT LUẬN
 Trên đây là tất cả tâm huyết của những người làm công tác giáo dục nói chung và với các thành viên trong tổ văn, sử , địa, GDCD nói riêng với mong muốn hoàn thành nhiệm vụ cao cả mà Đảng và nhân dân đã giao phó là sự nghiệp trồng người .
 Chúng tôi mong rằng đề tài này sẽ góp một phần nho nhỏ để giúp cho các thầy cô giáo vững tay hơn cho những chuyến đò đời tấp nập .
MỤC LỤC
 PHẦN I : MỞ ĐẦU
 1. Lí do chọn đề tài :
 2. Nhiệm vụ của đề tài : 
 3. Phương pháp nghiên cứu: 
 4. Mục đích nghiên cứu :
 5. Kế họach nghiên cứu
 PHẦN II : NỘI DUNG THỰC HIỆN VÀ KẾT QUẢ .
 A.Một số vấn đề còn tồn tại trong thực tế họat động giáo dục
 B. Phương pháp giáo dục :
 C. Những nguyên nhân khiến cho học sinh khó giáo dục:
 D. Những đặc điểm tâm lý ở học sinh cá biệt:
 E. Các phương pháp có tính đặc thù dùng trong giáo dục học sinh cá biệt
 G. Kinh nghiệm xây dựng mô hình giáo dục HS cá biệt :
 H. Kết quả thực nghiệm
 PHẦN III : KẾT LUẬN
PHÒNG GD – ĐT PHÙ MỸ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 TRƯỜNG THCS MỸ QUANG Độc lập - Tự do - Hạnh 
 Mỹ Quang, ngày 28 tháng 03 năm 2008
TỔNG HỢP ĐĂNG KÍ DỰ THI CẤP HUYỆN
SKKN và TBDH tự làm
I .Sáng kiến kinh nghiệm : 03
TT
Tên đề tài
Tác giả
Đạt giải cấp trường
Môn
01
Tìm quy luật để giải bài toán , tính tổng của một dãy số
Châu Đình Việt
B
Toán
02
Một số phương pháp dạy và học từ vựng
Tổ Tiếng Anh
B
Tiếng Anh
03
 Một số vấn đề về việc dạy Aâm nhạc thường thức trong trường THCS
Trần Quang Đức
A
Aâm nhạc
 II. Thiết bị dạy học tự làm : 02 
TT
Tên TBDH tự làm
Tác giả
Đạt giải cấp trường
Môn
01
Các trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh
Tổ Tiếng Anh
C
Tiếng Anh
02
 Mẫu ngâm một số động vật
Tổ Lí- Hóa - Sinh
B
Sinh vật
 Hiệu trưởng PTCM
 Đỗ Ngọc Liên Phạm văn Phòng 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem(19).doc