Tích hợp là sự phối hợp các tri thức có quan hệ gần gũi, mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ tác động vào nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc. Theo chương trình Ngữ văn, dạy học theo nguyên tắc tích hợp đã được hầu hết các nước trên thế giới vận dụng từ lâu và hiệu quả đã được khẳng định. Một minh chứng hiển nhiên cho điều này chính là ở miền Nam Việt Nam, giai đoạn 1954 – 1975, chương trình và sách giáo khoa Quốc văn cũng được biên soạn theo nguyên tắc tích hợp. Đương nhiên, với rất nhiều những hạn chế chủ quan và khách quan, sự vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy học văn ở miền Nam, được cụ thể hóa qua chương trình và sách giáo khoa, không thể đạt đến trình độ như chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay; nhưng rõ ràng việc tìm hiểu thấu đáo vấn đề này vẫn có thể góp phần giúp cho chúng ta giải quyết có hiệu quả những vấn đề đặt ra trong thực tiễn dạy học Ngữ văn.
Dạy học văn theo quan điểm tích hợp ở miền nam (1954 – 1975) Tích hợp là sự phối hợp các tri thức có quan hệ gần gũi, mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ tác động vào nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc. Theo chương trình Ngữ văn, dạy học theo nguyên tắc tích hợp đã được hầu hết các nước trên thế giới vận dụng từ lâu và hiệu quả đã được khẳng định. Một minh chứng hiển nhiên cho điều này chính là ở miền Nam Việt Nam, giai đoạn 1954 – 1975, chương trình và sách giáo khoa Quốc văn cũng được biên soạn theo nguyên tắc tích hợp. Đương nhiên, với rất nhiều những hạn chế chủ quan và khách quan, sự vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy học văn ở miền Nam, được cụ thể hóa qua chương trình và sách giáo khoa, không thể đạt đến trình độ như chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay; nhưng rõ ràng việc tìm hiểu thấu đáo vấn đề này vẫn có thể góp phần giúp cho chúng ta giải quyết có hiệu quả những vấn đề đặt ra trong thực tiễn dạy học Ngữ văn. Trước hết, chương trình và sách giáo khoa Quốc văn ở miền Nam cũng phối kết hợp giữa ba phần Văn học, Làm văn và Tiếng Việt để chúng tích hợp với nhau trong thực tiễn dạy học của giáo viên và học sinh. (Chương trình Quốc văn có tên gọi khác với ba phần này, cụ thể là Giảng văn, Luận văn và Văn phạm ). Trong ba phần, Luận văn được đặc biệt đề cao vì các phần khác như Giảng văn, Văn phạm phải xoay quanh một yếu mục rút trong phần Luận văn. Chương trình viết: “Hình thức và nội dung của những bài giảng văn phải phải phù hợp với chương trình Luận văn đang được giảng dạy: chẳng hạn dạy những bài giảng văn có tính cách miêu tả trong giai đoạn luận văn về loại miêu tả, có tính cách thuật sự trong giai đoạn dạy luận văn về thuật sự” (1). Rõ ràng, với hình thức biên soạn này, giữa hai phần Luận văn và Giảng văn sẽ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau; vừa tránh được sự trùng lặp, giẫm đạp lên nhau về kiến thức, lại vừa có thể gia tăng phần thực hành, một nhân tố hết sức quan trọng để nâng cao hiệu quả dạy học. Ngoài ra, phần Văn phạm cũng có sự phối kết hợp mật thiết với phần giảng văn, cụ thể là các bài tập thực hành về văn phạm đều lấy ngữ liệu từ bài giảng văn. Đó là chưa nói đến phần Ngữ vựng, theo quan niệm của những người biên soạn chương trình, nó sẽ không được học thành một bài biệt lập mà chỉ học nhân bài giảng văn. Cụ thể là phần chú giải của bài giảng văn sẽ có tác dụng mở rộng vốn từ cho học sinh. Ngoài ra, hệ thống câu hỏi học bài của phần Giảng văn có rất nhiều những câu hỏi về từ ngữ, yêu cầu học sinh phải cắt nghĩa, lý giải cũng chính là một giải pháp hữu hiệu để kết hợp dạy ngữ vựng cho người học. Theo các soạn giả, đây chính là “một lối tránh cho môn Ngữ vựng khỏi giả tạo, miễn cưỡng” (2). Khảo sát cuốn Quốc văn đệ thất (tương đương với lớp 6) của nhóm tác giả Vũ Khắc Khoan, Tô Đáng, Nguyễn Sỹ Tế, chúng tôi thấy các soạn giả thay thế phần chú giải bằng mục danh từ Hán Việt, nhặt lấy các danh từ Hán Việt trong bài ra giải nghĩa cho học sinh. Cách làm này chẳng những có tác dụng mở rộng vốn từ cho học sinh mà còn có tác dụng củng cố cho bài học Văn phạm, giúp học sinh nhận biết rõ các từ loại trong hoạt động hành chức của nó. Như thế, các soạn giả đã tìm những điểm chung giữa ba phần Giảng văn, Luận văn, Tiếng Việt để tạo ra sự tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn Quốc văn ở trường phổ thông. Xét về việc tổ chức bài học, sắp xếp thứ tự giữa các phần, có thể nói sách giáo khoa miền Nam đã lựa chọn giải pháp tích hợp ngang trong cùng một đơn vị bài học, để giữa các bộ phận kiến thức có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Trật tự giữa các phần cụ thể như sau: - Luận văn (lý thuyết) - Văn phạm (lý thuyết) - Giảng văn - Bài tập văn phạm - Bài tập luận văn Ở đây, xin lưu ý thêm là, một bài lý thuyết về Luận văn không phải chỉ có một bài giảng văn tương ứng như sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành mà có thể gồm nhiều bài giảng văn khác nhau. Ví dụ, bài đầu tiên của sách Quốc văn lớp 6, đã dẫn, là bài lý thuyết Luận văn: Đại cương về miêu tả nhân vật, tiếp theo đó là năm bài giảng văn đều có nội dung là miêu tả nhân vật, bao gồm: Mười thương, Dân chài, Người lính thời xưa, Người thua bạc, Một bà mối. Ngoài ra, ở mỗi bài giảng văn đều có các bài tập Luận văn tương ứng để củng cố lý thuyết; những bài tập đều gắn liền với nội dung của bài giảng văn. Tương tự, các bài tập văn phạm, như đã nói, cũng lấy ngữ liệu từ bài khóa được dạy học cho học sinh. Chúng tôi đơn cử một bài soạn cụ thể từ sách giáo khoa Quốc văn 6 để làm rõ vấn đề: Bài 1, Phần lý thuyết Luận văn: Miêu tả nhân vật. Phần lý thuyết văn phạm: Các âm, gồm nguyên âm và phụ âm Giảng văn: bài Mười thương Danh từ Hán Việt: Nhặt các danh từ Hán Việt trong bài để chú giải: duyên, huyền, hữu tình. Hệ thống câu hỏi học bài Bài tập văn phạm: gồm các câu hỏi sau; - D, G, R đọc khác nhau thế nào? Hãy dựa vào thí dụ để chứng minh. - S và X đọc giống nhau không? - Phân biệt nguyên âm và phụ âm trong hai câu đầu của bài Mười thương. Bài tập luận văn: gồm các câu hỏi: - Trong bài Mười thương trên đây, anh (chị) hãy: + Kể ra những chi tiết mô tả dung mạo (chân dung ngoài) của người thiếu nữ. + Kể ra những chi tiết tả tính tình (chân dung trong) của người thiếu nữ. + Nói rõ hơn những suy cảm của tác giả đối với người thiếu nữ. Đề tài đề nghị: Tả một người phụ nữ kiểu mẫu hiện đại theo ý anh chị. Như vậy, mỗi bài giảng văn sẽ có các bài tập văn phạm và luận văn tương ứng, điều này tạo nên sự tích hợp linh hoạt giữa ba phần, tăng hiệu quả học tập của học sinh. Một hệ quả dễ nhận thấy nữa là, chương trình dành ưu tiên cho hoạt động thực hành của học sinh hơn là học lý thuyết. Tuy nhiên, ở chương trình Quốc văn miền Nam, phần văn phạm chỉ được học ở hai lớp đầu cấp là lớp 6 và lớp 7. Mặt khác theo quan niệm của các soạn giả, thì từ lớp 8 trở đi “với số kinh nghiệm văn chương đã thu thập được trong những năm trước, học sinh nên tập luyện cho có đầu óc quán xuyến, tinh thần tổng hợp, do đó, chương trình không sắp xếp theo tích hợp ngang trong từng bài mà theo hướng từ khái quát tới tỉ mỉ, từ cụ thể đến thực hành” (2). Theo tinh thần nói trên, sự tích hợp trong các lớp sau linh hoạt hơn hai lớp đầu cấp. Tuy chỉ có sự tích hợp giữa Giảng văn và Luận văn nhưng chúng cũng không thể phối hợp chặt chẽ như trước.Theo chương trình, phần Giảng văn được đặt trước, sau mới đến phần Luận văn và rõ ràng nó đã có một sự đảo ngược về trật tự so với trước đây. Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, trong phần Luận văn gồm có hai phần là lý thuyết và thực hành cho nên những soạn giả sách giáo khoa có thể chọn phương án hợp lý để tích hợp Giảng văn và Luận văn. Có thể nói phương án phổ biến nhất đấy chính là gắn chặt phần thực hành Luận văn với Giảng văn, phần lý thuyết có thể trình bày cuối sách. Trong cuốn Quốc văn 9 của Thế Uyên, ở phần văn xuôi, sau hệ thống câu hỏi hướng dẫn học các bài văn nghị luận về các chủ đề như khái niệm văn chương, thái độ xử thế, vấn đề văn hóa xã hội của những tác giả nổi tiếng như Phan Châu Trinh, Trần Trọng Kim, Thạch Lam, Nhất Linh, soạn giả Thế Uyên đều soạn ra các đề nghị luận thực tập. Chúng, hoặc là đề nghị luận văn học, hoặc là đề nghị luận xã hội, nhưng đều gắn liền với nội dung bài khóa, hoặc nhân gợi ý của bài khóa mà bàn rộng ra các vấn đề xã hội trước mắt. Ví dụ, sau bài giảng văn Nghĩa vụ nhà làm báo của Phạm Quỳnh, Thế Uyên soạn ra những đề luận thực tập sau: 1. Bình giải nhận định sau: Ai nói đến báo là nói đến dư luận, ai nói đến dư luận là nói đến báo. 2. Trình bày những điểm đúng và sai trong nhận định sau: Nhà báo nói láo ăn tiền. 3. Bình giải tư tưởng sau: không thể có dân chủ nếu không có tự do báo chí. Sự kết hợp này có thể giúp học sinh có thói quen tìm hiểu và mở rộng những kiến thức về xã hội thông qua việc đọc các bài luận, cũng như biết cách dựa vào các bài luận mẫu mực ở bài giảng văn để rèn luyện cả về suy nghĩ lẫn cách tổ chức bài vănHiện nay, chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn cũng đưa nhiều kiểu văn bản vào dạy học cho học sinh và song song với nó, ở phần Làm văn cũng ưu tiên những đề văn nghị luận xã hội. Theo chúng tôi, việc gắn chúng lại với nhau theo hướng tích hợp, nghĩa là ra những đề văn nghị luận gắn với các bài đọc văn sẽ tạo động lực để các em học, nghiền ngẫm sâu hơn các bài nghị luận xã hội; mặt khác, chính bài văn đó sẽ tạo hứng hoặc tạo nên những căn cứ, chỗ dựa, cả về tri thức lẫn cách lập luận, trình bày để học sinh làm tốt các đề nghị luận đi liền với nó. Ở sách giáo khoa Quốc văn đệ nhị cấp, tương đương với cấp THPT hiện nay, chúng ta cũng bắt gặp phương án tích hợp tương tự. Ví dụ trong cuốn Việt văn đệ nhị, hai tập, của tác giả Võ Thu Tịnh, một bài học giảng văn gồm các phần cụ thể sau: A. Tiểu sử tác giả B. Trình bày những nội dung cơ bản trong toàn bộ sáng tác của tác giả C. Trích giảng D. Tài liệu đọc thêm F. Ý kiến của các nhà phê bình E. Luận văn Phần Luận văn chủ yếu là thực hành. Nó gồm một hệ thống các đề bài và hướng dẫn rất ngắn gọn để giúp học sinh giải quyết từng đề một. Ngoài ra, sách cũng chọn một số các loại đề tiêu biểu và làm mẫu. Điều đáng lưu ý ở đây chính là tất cả các đề bài ở phần Luận văn đều luận về tác giả và các tác phẩm đã được giới thiệu ở phần Giảng văn. Ví dụ, nếu ở phần Giảng văn học về tác phẩm Nguyễn Công Trứ thì ở phần Luận văn các đề bài chỉ xoay quanh tác phẩm của ông, hoặc là đề luận bình giảng, hoặc là đề luận thuộc loại trình bày. Như vậy, có thể khẳng định dạy học văn theo nguyên tắc tích hợp đã được vận dụng phổ biến trong chương trình và sách giáo khoa ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 và không thể phủ nhận được hiệu quả tích cực của nó. Một số điểm thuộc chương trình và sách giáo khoa miền Nam có thể gợi ý cho chúng ta vận dụng có hiệu quả nguyên tắc này vào dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông. Ths. Lê Sử GV. Khoa Ngữ văn - Đại học Vinh – Nghệ An TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chương trình THPT, Sài Gòn, 1970. 2. Vũ Khắc Khoan, Tô Đáng, Nguyễn Sỹ Tế, Quốc văn toàn thư, lớp đệ thất (lớp 6), Tủ sách giáo khoa Trường Sơn, 1963 3. Võ Thu Tịnh, Việt văn, đệ nhị, 2 tập, NXB Hải Vân, 1970 4. Thế Uyên, Quốc văn, lớp 9, Thái Độ xuất bản, 1974.
Tài liệu đính kèm: