Câu 1: (1 điểm)
a. Chép lại câu văn sau đây sau khi đã sửa xong lỗi chính tả trong câu
“Buổi chưa hôm ấy, ông Hai ở nhà một mình. Con bé nớn gánh hàng da quán tro mẹ chưa thấy về”
b. Chỉ ra lỗi sai ngữ pháp trong câu văn sau, chép lại sau khi đã sửa
“Để có được một cuộc sống phát triển văn minh, hiện đại, còn phải phấn đấu rất nhiều”
Câu 2: (4 điểm) Cho khổ thơ sau đọc kĩ và trả lời các câu hỏi sau:
Trăng cứ tròn vành vạch
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
(Ánh trăng- Nguyễn Duy)
a. Thể thơ được sử dụng trong đoạn
b. Nêu tên ba biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ
c. Viết một đoạn văn ngắn (dung lượng 8-10 câu) nêu cảm nhận của em về khổ thơ trên
Đề KT Ngữ văn HKI Câu 1: (1 điểm) Chép lại câu văn sau đây sau khi đã sửa xong lỗi chính tả trong câu “Buổi chưa hôm ấy, ông Hai ở nhà một mình. Con bé nớn gánh hàng da quán tro mẹ chưa thấy về” Chỉ ra lỗi sai ngữ pháp trong câu văn sau, chép lại sau khi đã sửa “Để có được một cuộc sống phát triển văn minh, hiện đại, còn phải phấn đấu rất nhiều” Câu 2: (4 điểm) Cho khổ thơ sau đọc kĩ và trả lời các câu hỏi sau: Trăng cứ tròn vành vạch Kể chi người vô tình Ánh trăng im phăng phắc Đủ cho ta giật mình (Ánh trăng- Nguyễn Duy) Thể thơ được sử dụng trong đoạn Nêu tên ba biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ Viết một đoạn văn ngắn (dung lượng 8-10 câu) nêu cảm nhận của em về khổ thơ trên Câu 3: (5 điểm) Viết bài văn tự luận nêu cảm nhận của em về nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Đáp án * Những yêu cầu chung. Học sinh làm bài sạch sẽ, rõ ràng, đúng yêu cầu đề ra. - Trừ điểm nặng với những bài làm phạm lỗi kĩ năng cơ bản như: sai kiến thức về các biện pháp tu từ, về câu, bài lạc đề, sa vào tóm tắt tác phẩm. Yêu cầu cụ thể. Câu 1. (1 điểm, mỗi câu đúng được 0,5 điểm) Chép lại câu văn sau khi đã sửa lỗi chính tả “Buổi trưa hôm ấy, ông Hai ở nhà một mình, con bé lớn gánh hàng ra quán cho mẹ chưa thấy về”-> giải thích: câu văn phạm lỗi nhầm lẫn phụ âm đầu giữa ch và tr, d và r, l và n. Chỉ ra lỗi sai ngữ pháp trong câu văn và chép lại sau khi đã sửa: Lỗi sai ngữ pháp: câu thiếu chủ ngữ, chỉ mới có thành phần trạng ngữ và thành phần vị ngữ. Chép lại sau khi đã sửa: “Để có được một cuộc sống phát triển văn minh, hiện đại, con người (hoặc chúng ta) còn phải phấn đấu rất nhiều” Câu 2. (4 điểm, trả lời đúng câu a,b,c được mỗi câu 0,5 điểm, viết đoạn văn được 2,5 điểm) Hoàn cảnh ra đời bài thơ: Nguyễn Duy viết bài thơ năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh. Lúc này, chiến tranh qua đi mới 3 năm nhưng con người đã dần lãng quên quá khứ trong nhịp sống hối hả thời bình. Thể thơ: 5 chữ (hoặc thể thơ ngũ ngôn) Phương thức biểu đạt: biểu cảm và tự sự (trong đó biểu cảm là phương thức chính, tự sự là phương thức phụ) Biện pháp tu từ sử dụng trong đoạn thơ: nhân hoá Ánh trăng im phăng phắc Đủ cho ta giật mình Viết đoạn văn (2,5 điểm) Yêu cầu về kiến thức + Câu chủ đề: Khổ thơ đánh dấu quá trình thức tỉnh, sự tự vấn lương tâm của con người trước ánh trăng và quá khứ nghĩa tình. + Các ý cụ thể: -> Tương quan đối lập giữa ánh trăng- con người: ánh trăng vẫn tròn vành vạch tượng trưng cho những giá trị nguyên vẹn, thuỷ chung trong quá khứ, còn con người đã trở thành người vô tình. Người chối bỏ vầng trăng tri kỉ, người lãng quên những tháng ngày đẹp đẽ, gian khổ giữa không gian hiện đại tiện nghi của ánh điện, cửa gương. -> Cảm nhận của con người về thái độ của ánh trăng: ánh trăng im phăng phắc -> thái độ bao dung, không một lời trách móc, nhưng chính cái im lặng đó lại khiến con người giật mình, thức tỉnh. -> Hành động giật mình của con người: hành động đánh dấu quá trình con người đối diện với quá khứ và chính mình, nhận ra mình đã thay đổi, đã trở nên vô tình. giây phút này thể hiện cái nhìn tự phê phán đầy nghiêm khắc, sự tự vấn lương tâm của con người, nhắc nhở ta hãy sống ân tình với quá khứ và chính bản thân mình. Yêu cầu về kĩ năng + Biết làm kiểu bài phân tích cảm nhận một đoạn thơ + Viết đúng một đoạn văn từ 8-10 câu, tốt nhất nên chọn kiểu đoạn diễn dịch + Ngôn ngữ trong sáng, có cảm xúc, viết đúng chính tả, diễn đạt trôi chảy Câu 3: (5 điểm) Cảm nhận về nhân vật bé Thu Về kiến thức. Biết bám sát các chi tiết cụ thể, dẫn chứng trong văn bản để làm nổi bật được các ý chính sau: Ý 1: Giới thiệu về nhân vật bé Thu: em bé tám tuổi chưa từng một lần gặp ba mình từ lúc sinh ra ngoài một tấn hình ba chụp cùng má ngày cưới. Bé Thu được nhà văn đặt trong một tình huống hết sức éo le, nghịch cảnh trong chiến tranh: vì hiểu lầm, em không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra cũng là khi hai cha con phải chia tay nhau, và lần gặp đầu tiên đó cũng là lần gặp mặt cuối cùng Ý 2: Thu là cô bé dễ thương, có cá tính, thậm chí rất bướng bỉnh nhưng lại có một tình yêu ba sâu sắc. Tình yêu trẻ thơ ấy được biểu lộ qua hai hoàn cảnh khác hẳn nhau: a. Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba: biểu hiện qua những chi tiết - Sợ hãi trong phút giây đầu tiên gặp anh Sáu chỉ vì anh biểu lộ sự xúc động một cách mãnh liệt, yêu thương, nôn nóng - Trong 3 ngày ngắn ngủi khi anh Sáu ở nhà: + không chịu gọi anh một tiếng ba + nếu mẹ bắt gọi ba thì chỉ nói trổng + không chịu nhờ ba chắt nước nồi cơm + hất cái trứng cá ra khỏi chén cơm khi được ba gắp cho + bị ba đánh không khóc, khi bỏ sang nhà bà ngoại còn cố ý khua dây xuồng thật to.. -> những chi tiết trên cho ta thấy bé Thu rất bướng bỉnh nhưng cũng thật trẻ con. Và nguyên nhân sâu xa của sự khước từ tình yêu thương nơi anh Sáu chính là tình yêu ba trong lòng một đứa bé 8 tuổi. Đó là tình cảm tôn thờ, trung thành với người ba trong tấm ảnh b. Trong giây phút chia tay anh Sáu: - Sự thay đổi trong ánh mắt, cử chỉ của bé Thu qua sự quan sát tinh tế của bác Ba - Tiếng gọi ba kìm nén suốt 8 năm, tiếng gọi vang lên từ sâu thẳm đáy lòng Thu trong giờ phút chia li - Những hành động níu giữ, biểu hiện tình yêu thương cuống quýt, vồ vập của bé Thu-> giây phút đẹp nhất của tình phụ tử thiêng liêng, giây phút cả hai cha con anh Sáu chờ đợi trong 8 năm trời. Nó là khoảnh khắc bất tử về tình cha con trong cuộc đời con người. Chính vì vậy nó khiến tất cả mọi người chứng kiến đều rơi lệ. - Câu chuyện của bác Ba và bà ngoại về sự thay đổi trong hành động của bé Thu. Câu chuyện này chứng minh cho tình yêu ba mãnh liệt trong lòng một đứa trẻ con thiếu thốn tình cha. Dẫu cách biểu hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau nhưng tình cảm ấy thống nhất, bền vững trong lòng cô bé - Nêu ý nghĩa của chiếc lược ngà với bé Thu và khẳng định thêm việc Thu trở thành cô giao liên dũng cảm sau này cũng bắt nguồn từ tình yêu dành cho người ba đã hy sinh của mình Ý 3: Đánh giá về nhân vật: - Bé Thu là nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc và làm ta xúc động khi đọc “Chiếc lược ngà”. Thông qua câu chuyện của anh Sáu và bé Thu, tác giả muốn ngợi ca vẻ đẹp của tình phụ tử trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương mất mát. Vì thế, tác phẩm là bài ca bất tử về sức mạnh tình cha con trong cuộc đời mỗi con người - Qua nhân vật bé Thu và câu chuyện cảm động của cha con em, ta càng hiểu thêm những đau thương mà người dân Nam bộ phải hứng chịu trong cuộc chiến tranh chống Mĩ. Chính vì thế, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ thành công trong việc miêu tả tâm lí trẻ em mà còn mang giá trị nhân văn cao đẹp. 2. Về kĩ năng - Biết làm kiểu bài cảm nhận về nhân vật - Bố cục mạch lạc, hành văn trong sáng, có cảm xúc, không phạm lỗi diễn đạt, viết chính tả, viết câu đúng 3. Thang điểm - Đạt đầy đủ các ý trên, phân tích sâu, xúc động 5,0 điểm - Đề cập đến tất cả các ý nhưng chưa sâu 4,0 điểm - Đề cập đến các ý nhưng không sâu, phạm lỗi diễn đạt 3,0 điểm - Chỉ đề cập 1/2 số ý, phạm nhiều lỗi diễn đạt 2,0 điểm - Bài viết sa vào tóm tắt truyện, kĩ năng làm bài yếu 1-> 0,5 điểm Bài văn mẫu. “Chiếc lược ngà” là truyện ngắn xuất sắc của một cây bút nhiều gắn bó với người dân Nam bộ trong kháng chiến chống Mĩ- nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Truyện khai thác tình cha con sâu sắc, thiêng liêng của anh Sáu và bé Thu trong nghịch cảnh chiến tranh đầy đau thương mất mát. Đọng lại trong tâm hồn người đọc khi cảm nhận câu chuyện chính là ấn tượng khó quên về nhân vật bé Thu, cô bé tám tuổi đầy cá tính với tình yêu thương ba sâu sắc, mãnh liệt. {Mở bài 2 theo kiểu gián tiếp: Nhà văn Nga Aimatôp có lần đã viết “không thể nói về chiến tranh một cách giản đơn, không thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến tranh đọng lại thành máu trong sâu thẳm trái tim con người và kể chuyện về nó không phải là điều dễ dàng”. Quả đúng như vậy, kể chuyện về chiến tranh với các nhà văn Việt Nam là điều không dễ dàng, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mĩ 30 năm trường kì của nhân dân Nam bộ. Tuy nhiên, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cây bút trưởng thành từ trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ở Nam bộ lại nhìn về hiện thực đau thương đó bằng một cái nhìn nhân văn, cao đẹp. Vượt lên những mất mát, đau thương của con người, nhà văn ngợi ca về vẻ đẹp của tình cha con, tình đồng đội. Điều này được thể hiện trọn vẹn trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” qua nhân vật bé Thu và câu chuyện cảm động của hai cha con bé Thu- anh Sáu.} Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử. Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em. Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi sự hiểu lầm trong em được bà ngoại giải đáp. Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh sau ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, doạ đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sau trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuòng cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba. Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má. Người ba với gương mặt không có vết thẹo dài do tội ác của kẻ thù. Khi đã có hình ảnh người ba ấy, em ngây thơ và rất trẻ con cho rằng ba không thay đổi và mình không thể gọi ba với bất kì một người nào khác. Thế nhưng, tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút anh Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận. Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả anh Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba...a...a...ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, chạy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi...Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình” vì nó khiến ta bồi hồi xúc động, không muốn cắt đi khoảnh khắc đẹp nhất của tình cha con trong bé Thu, anh Sáu. Cả hai cha con anh đã đợi chờ trong tám năm chỉ để có vài phút ngắn ngủi này. Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ bướng bỉnh không nhận ba hôm trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay. Như vậy, trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát trừ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử. Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước. Bé Thu là nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc và làm ta xúc động khi đọc “Chiếc lược ngà”. Thông qua câu chuyện của anh Sáu và bé Thu, tác giả muốn ngợi ca vẻ đẹp của tình phụ tử trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương mất mát. Vì thế, tác phẩm là bài ca bất tử về sức mạnh tình cha con trong cuộc đời mỗi con người. Đồng thời, qua bé Thu và câu chuyện cảm động của cha con em, ta càng hiểu thêm những đau thương mà người dân Nam bộ phải hứng chịu trong cuộc chiến tranh chống Mĩ. Chính vì thế, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ thành công trong việc miêu tả tâm lí trẻ em mà còn mang giá trị nhân văn cao đẹp. Có một nhà văn đã từng nói “không có gì nghệ thuật vươn tới hơn là tình yêu thương cao đẹp của con người”. Và thành công lớn nhất của nhà văn Nguyễn Quang Sáng trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chính là ông đã đem đến cho ta cảm xúc mãnh liệt về tình người. Tình cha con thiêng liêng, bất tử sáng lên trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương, khốc liệt.
Tài liệu đính kèm: