Đề tài Đề cập đến "diễn đạt nói" không nói đến " diễn đạt viết" - Của dạy học lịch sử THCS

Đề tài Đề cập đến "diễn đạt nói" không nói đến " diễn đạt viết" - Của dạy học lịch sử THCS

" Giáo dục nào thì xã hội ấy" ! " Dân tộc nào muốn phát triển thì dân tộc ấy phải coi Giáo dục Đào tạo- Khoa học công nghệ là động lực thúc đầy sự phồn vinh của dân tộc mình!" . Sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước đang đặt ra cho Giáo dục- Đào tạo Việt Nam nhiệm vụ tiếp tục đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy- học nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo lớp người có đức, có tài., năng động, sáng tạo để đáp ứng xu thế "giao lưu quốc tế " của thời đại.

 

doc 16 trang Người đăng HoangHaoMinh Lượt xem 1261Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Đề cập đến "diễn đạt nói" không nói đến " diễn đạt viết" - Của dạy học lịch sử THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề
 	" Giáo dục nào thì xã hội ấy" ! " Dân tộc nào muốn phát triển thì dân tộc ấy phải coi Giáo dục Đào tạo- Khoa học công nghệ là động lực thúc đầy sự phồn vinh của dân tộc mình!" . Sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước đang đặt ra cho Giáo dục- Đào tạo Việt Nam nhiệm vụ tiếp tục đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy- học nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo lớp người có đức, có tài...., năng động, sáng tạo để đáp ứng xu thế "giao lưu quốc tế " của thời đại.
Như ta biết: Dạy học là một hoạt động tổng hợp của nhiều kỹ năng nghiệp vụ sư phạm và môn học Lịch sử, nó là bộ môn khoa học xã hội có một vị trí vô cùng quan trọng trong giao lưu với văn hoá thế giới, nó có khả năng xác định vị thế của mình trên trường quốc tế, nó là cơ sở để giáo dục tình cảm, đạo đức của con người. Vì vậy, Bác Hồ đã từng dạy:
	" Dân ta phải biết sử ta
	Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam"
Vậy, để chất lượng dạy học lịch sử THCS góp phần đáp ứng được mục tiêu Giáo dục- Đào tạo, một trong những yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học được nhiều nhà trường quan tâm nghiên cứu và đề cập đến là vấn đề " Diễn đạt nói". Bởi nó còn là vấn đề bấp cập trong dạy học hiện nay. Và đây cũng chính là trăn trở trong tôi, khiến tôi viết lên đôi điều suy nghĩ về : "Diễn đạt nói- trình bày miệng- trong giờ truyền thụ kiến thức lịch sử ".
ở bài viết này, tôi chỉ có một vài ý kiến đề cập đến "diễn đạt nói" không nói đến " diễn đạt viết" - của dạy học lịch sử THCS và cũng chỉ dừng lại việc sử dụng"diễn đạt nói trong truyền thụ kiến thức lịch sử " mà tôi đã cảm nhận được qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn của mình, của đồng nghiệp nhiều năm qua.
Giải quyết vấn đề
Trình bày về " diễn đạt nói trong giờ truyền thụ kiến thức lịch sử THCS "tôi xin bộc lộ ý kiến của mình qua ba ý cơ bản:
Thứ nhất: Vị trí, tầm quan trọng của "diễn đạt nói" trong truyền thụ kiến thức lịch sử THCS.
Ta đều biết: Không có phương pháp, phương tiện dạy học nào được sử dụng lại không kèm theo lời nói. Lời nói giữ vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học. Trong đó có dạy học lịch sử THCS. Diễn đạt của thầy rõ ràng sẽ giúp cho trò dễ tái hiện được thông tin, khôi phục được quá khứ như nó đã hiện ra, để trò tìm tòi, suy nghĩ, rút ra kết luận, hình thành khái niệm, tác động đến tình cảm của các em. Ngược lại, nếu thầy diễn đạt lủng củng, không đúng ngữ pháp thì trò không hứng thú học tập, không hiểu bài. Vì thế "diễn đạt nói" của thầy có tác dụng quan trọng đến hiệu quả dạy học của chúng ta.
Thứ hai: Tình hình"diễn đạt nói" trong dạy học lịch sử THCS hiện nay.
 Thực tế cuộc sống năng động, sáng tạo toàn diện của con người nói chung và dạy học, dạy học lịch sử THCS nói riêng đã chứng minh" diễn đạt nói" đang có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, nó cũng vẫn còn nhiều bất cập trong dạy học của thầy trò nhiều nhà trường THCS.
Với dạy học lịch sử THCS, "diễn đạt nói" hay "trình bày miệng" của thầy còn phạm nhiều khuyết tật như :nói ngọng, nói lắp, nói quá nhanh hay nói quá chậm, ngắt nghỉ chưa chính xác, còn dùng nhiều từ thừa... làm cho lời nói trúc trắc, diễn đạt lủng củng, không rõ ràng, gây cho trò ít chú ý bài giảng, lĩnh hội kiến thức kém, thậm chí có em còn phản ứng vô lễ, nhại lại lời nói của thầy... Mặt khác, lời nói của thầy không chuẩn còn ảnh hưởng xấu đến phát âm của các em: em nói ngọng, nói lắp không được thầy sửa chữa, có nhiều em phát âm chuẩn, đôi khi lại bị ảnh hưởng cách nói ngọng, nói lắp ...của thầy.
Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử THCS người giáo viên lịch sử nhất thiết phải gia công rèn luyện diễn đạt, khắc phục các khuyết tật thường gặp trong diễn đạt hiện nay, tạo cho diễn đạt nói đáp ứng được vai trò to lớn của nó.
Thứ ba: Những nội dung cơ bản của " diễn đạt nói" trong dạy học lịch sử THCS.
A/ Những yêu cầu của kỹ năng nói.
I/ thầy phải thường xuyên khắc phục các khuyết tật khi phát âm.
1- Nói ngọng:
Âm "tr" trong "trâu" nói thành "t" trong "tâu", "l" trong " lo lắng" nói thành kiểu ăn "no", trời "nắng", thầy nhất thiết phải nói đúng, sử dụng đúng các thuật ngữ, các khái niệm lịch sử như:" chế độ chiếm hữu nô lệ" ," lệ nông"... để hiểu đúng lịch sử chứ không thể nói "chế độ chiếm hữu lô nệ" hay " nệ nông"...
2- Nói lắp.
 Là hiện tượng nói lặp đi lắp lại nhiều lần một từ, một ngữ hay câu nào đó kiểu như "Chế, chế, chế độ..", "thế nghĩa là, thế nghĩa là..." thầy cần tránh nói lắp, phải diễn đạt phải trôi chảy để đảm bảo thời gian giờ học, tạo cho bài giảng sinh động, hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, các em cũng không phải khó chịu hoặc buồn cười với lời giảng của thầy, cũng không phải chịu " tra tấn" trong học tập.
3- Việc phát âm gió không chuẩn.
 Các âm :r, s.... do đọc quá nặng "r" thành "d", đọc "s" thành "x"....làm cho trò hiểu sai lệch bài học, gây ấn tượng không tốt đối với các em.
4- Việc diễn đạt đã:
- Dùng nhiều thổ ngữ ( ngôn ngữ địa phương ) làm cho trò lạ tai, khó hiểu là không nên. Thầy phải dùng các thuật ngữ chuyên môn, phổ thông, quen thuộc với các em để diễn đạt bài học.
- Thầy đã nói quá nhanh mà làm mất đi sự truyền cảm, trò không theo kịp bài học, và ngược lại thầy không nên "nói nhát gừng", "nói ngắt quãng", không dùng nhiều liên từ "rằng", "thì", " mà".... gây ấn tượng không tốt với học sinh , làm giảm đi chất lượng bài học.
Như vậy: Diễn đạt nói trong dạy học lịch sử THCS đòi hỏi người giáo viên cần thường xuyên và nhanh chóng khắc phục các khuyết tật trên để không tạo ra "gương xấu" cho trò trong diễn đạt.
II/ việc sử dụng " lời nói sinh động" là điều kiện quan trọng trong dạy học lịch sử THCS.
Trong dạy học lịch sử THCS, ngôn ngữ hội thoại của thầy rất cần thiết, lời nói của thầy giữ vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học. Vì vậy:
1- Diễn đạt nói của thầy phải rõ ràng, mạch lạc: 
Khi truyền đạt bài học lịch sử, nghĩa là thầy phải dùng từ ngữ phổ thông, hợp với trình độ học sinh, không đưa ra từ ngữ nước ngoài, từ ngữ lạ tai mà các em không biết. Khi trình bày khái niệm mới, thầy phải giải thích rõ ràng bằng thuật ngữ, từ ngữ quen thuộc, không nên tỏ ra "mình hiểu biết rộng", "hơn người", không giải thích mập mờ, trừu tượng, rắc rối.... mà cần diễn đạt cho chặt chẽ, rõ ràng, không lặp đi lặp lại, mà cũng không quá sơ sài hình thức...
2- Diễn đạt của thầy phải sinh động.
 Để thu hút trò nghe, hiểu, nhớ và nhớ lâu bài học. Muốn diễn đạt sinh động, với đặc trưng của dạy học là tái hiện sự kiện, làm sống lại quá khứ lịch sử , lời diễn đạt của thầy cần chú ý:
a) Sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh: Hình ảnh là sự phản ánh hiện thực tư tưởng bằng hiện thực cụ thể của tự nhiên và xã hội, trong dạy học lịch sử THCS, thông qua hình ảnh, sự vật hiện tượng miêu tả được hiện lên rõ ràng, để tác động đến lý trí, tình cảm của học sinh hơn là dùng ngôn ngữ thông thường.
Ví dụ: Nói tới mối quan hệ giữa cách mạng vô sản chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, giáo viên mượn hình ảnh Bác Hồ đã nói : " Chủ nghĩa tư bản nó như con đỉa có hai cái vòi...". Như vậy, hình ảnh đó làm các em dễ hiểu, nhớ lâu hơn là giải thích bằng lý luận suông.
b) Sử dụng từ ngữ cụ thể, gợi tả, chân thực: Với diễn đạt bài giảng bằng ngôn ngữ trong sáng, rõ ràng, lưu loát, không tuỳ tiện dùng từ ngữ theo sở thích kiểu: " ờ, ờ..." hay nhiều liên từ làm cho trò khó tri giác, thậm chí tạo " trò đùa" để các em " nhại lại".
c) Dùng lời nói của thầy vào bài giảng phải chú ý:
- Âm lượng không nói qúa to ( làm trò "trối tai") , cũng không nói quá nhỏ ( trò không nghe được sẽ mất trật tự), mà phải nói rõ ràng, đủ để cả lớp " vừa nghe".
- Ngữ điệu diễn đạt của thầy cần bộc lộ rõ sắc thái tình cảm thông qua cách biểu đạt từng loại, thông báo, tường thuật, miêu tả, phân tích... lịch sử cho phù hợp với nội dung bài học lịch sử , trình bày không diễn đạt đều đều làm bài học lịch sử khô khan, kém thu hút trò say sưa học tập.
- Nhịp điệu diễn đạt của thầy cần thật sự linh hoạt, phù hợp với cử chỉ, điệu bộ và ăn khớp với nhịp độ tư duy của học sinh. Thầy nên chú ý diễn biến trên nét mặt, cử chỉ các em để điều chỉnh ngữ điệu trên lớp của mình, biết sắp xếp các trọng tâm cho phù hợp với bài học.
Như vậy: Để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử THCS nhằm đáp ứng mục tiêu môn học, việc làm quan trọng đầu tiên là người thầy phải khắc phục các khuyết tật ( như trên) đồng thời phải thường xuyên rèn luyện kỹ năng diễn đạt của mình tạo cho bài giảng thêm sinh động.
Song, với đặc trưng của lịch sử THCS thì "diễn đạt nói" của bài dạy lịch sử thường kết hợp sử dụng nhiều cách biểu hiện ngữ điệu, điều quan trọng là mỗi người giáo viên chúng ta cần hiểu rõ đặc điểm cách diễn đạt đó như thế nào để lựa chọn, vận dụng kết hợp với các phương tiện dạy học khác ( đồ dùng trực quan: bản đồ, tranh ảnh..., ghi bảng, đọc sách giáo khoa) cho phù hợp nội dung bài học để chất lượng dạy học đạt hiệu quả cao. Sau đây tôi xin trình bày:
B/ Cụ thể hoá việc sử dụng ngữ điệu "diễn đạt nói" trong truyền thụ kiến thức lịch sử THCS.
Trong dạy học, chức năng của lời nói rất phong phú, ngôn ngữ của thầy dạy lịch sử mà trong sáng, gợi cảm, giàu hình ảnh thì dễ giúp trò về với quá khứ lịch sử, tạo biểu tượng cụ thể , rõ ràng để tìm tòi rút ra kết luận, hình thành khái niệm, rút ra bản chất, quy luật lịch sử để tác động đến tư tưởng tình cảm của học sinh. Song, muốn giúp trò tái tạo được lịch sử, đầu tiên là thầy phải thật sự hiểu và cảm sâu sắc sự kiện lịch sử đó. Vì, ngôn ngữ bao giờ cũng gắn với tư cách đạo đức, tư tưởng tình cảm của người đó. Chỉ khi nào thầy rung cảm trước hành động dũng cảm của nhân dân ta trong chiến đấu thì thầy mới có được nhiệt tình để ca ngợi về hành động đó, không thể giáo dục học sinh căm thù quân xâm lược nếu thầy không thực sự căm thù chúng. Nhưng điều cần nói ở đây là : từ rung cảm bài lịch sử của thầy, thầy cần biết lựa chọn phương thức biểu hiện lời nói như thế nào trong bài giảng cho học sinh để lôi cuốn các em hứng thú với bài học lịch sử đó!
Và đây chính là một số lý luận và vận dụng thực tế việc vận dụng các hình thức diễn đạt nói cơ bản đối với truyền thụ kiến thực trong dạy học lịch sử THCS.
I/ Ngữ điệu ở nội dung thông báo.
1- Thông báo là cách trình bày giới hạn: Nêu một cách chính xác những sự kiện, niên đại, số liệu, tên đất, tên người nó cần thiết cho việc ghi nhớ bài học, để hình thành khái niệm, rút ra kết luận.
2- Thông báo không tạo cho học sinh hình ảnh cụ thể về quá khứ, không hấp dẫn, không gây được hứng thú học tập cho học sinh . Nó tiết kiệm được thời gian để giáo viên truyền đạt được nhiều sự kiện lịch sử làm cơ sở cho việc tiếp thu kiến thức. Song ngữ điệu thông báo thì ngắn gọn nên nội dung nghèo nàn, diễn đạt khô khan.
Ví dụ: Lịch sử lớp 7: Bài 19 Nước Đại Việt thời Lê sơ ( 1428- 1527)
ở Đ II- 3) Luật pháp : Trên cơ sở học sinh đã học trước ở nhà.
- Giáo viên thông báo một số điều khoản chính của bộ luật Hồng Đức giáo viên đưa bảng thống kê trên lên bảng và nêu để các em khái q ... n lớp. Để bài giảng lịch sử có hiệu quả cao bài giảng đó phải được linh hoạt vận dụng kết hợp nhiều hình thức ngữ điệu, ngôn ngữ phù hợp với nội dung của sách giáo khoa đã định.
	Và sau đây, một lần nữa tôi xin cụ thể hơn việc thực hiện lựa chọn các hình thức sử dụng ngữ điệu diễn đạt nói trong một giờ lên lớp truyền đạt bài học lịch sử cụ thể (đây không phải là trình bày giáo án)
	Lớp 7 - bài 14 - tiết 26
	III- Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Mông - Nguyên (1287 - 1288)
	1- Nhà Nguyên xâm lược Đại Việt
	- Giáo viên gợi ý để học sinh nhắc lại một số ý chính về cuộc xâm lược lần thứ hai bị thất bại của quân Nguyên.
	- Hỏi: Vì sao quân Nguyên đã hai lần thất bại nặng nề trong âm mưu xâm lược Đại Việt mà chúng còn có ý đồ quyết tâm xâm lược nước ta lần thứ ba.
- Giáo viên thông báo: ý đồ của nhà Nguyên: Sau hai lần thất bại nặng nề đến xâm lược Đại Việt, nhà Nguyên chưa từ bỏ ý đồ bành chướng xuống phía Nam, chúng đã quyết tâm xâm lược nước ta lần ba.
- Hỏi tại sao nhà Nguyên lại xuống ý đồ như vậy ?
- Giáo viên thông báo : Vì chúng muốn trả thù, rửa nhục.
- Giáo viên gọi học sinh đọc sách giáo khoa (phần chữ in nghiêng)
- Hỏi: Nêu dẫn chứng việc nhà Nguyên chuẩn bị cho việc xâm lược nước ta lần thứ ba (học sinh trao đổi)
- Hỏi: Nhận xét mức độ chuẩn bị xâm lược Đại Việt lần thứ ba của nhà Nguyên (giáo viên thông báo kết luận “ Sự chuẩn bị rất công phu, kỹ lưỡng, thể hiện ý đồ quyết tâm thôn tính nước ta của chúng"
- Giáo viên đưa lược đồ (đã phóng to từ sách giáo khoa) treo lên bảng và kết hợp lược đồ với thông báo hai ý : Vua Trần đã khẩn trương chuẩn bị đánh giặc 
( Giáo viên : Cử tổng chỉ huy là Trần Hưng Đạo và phó tướng là Trần Khánh Dư) 
Với tinh thần của nhà Trần là bình tĩnh, tự tin vào thắng lợi 
* Tường thuật cuộc tiến quân vào nước ta của quân Nguyên :
" Từ cuối tháng 12/1887, 30 vạn quân Nguyên chia làm 2 cánh quân ồ ạt kéo vào nước ta. Thoát Hoan chỉ huy cánh quân bộ vượt biên giới đánh vào Lạng Sơn, Bắc Giang. Trần Quốc Tuấn sau nhiều lần chặn đánh giặc ở cửa ải và vùng hiểm yếu đã cho quân rút lui khỏi Vạn Kiếp và một số nơi về vùng sông Đuống, chặn giặc kéo vào Thăng Long. Ngày đầu năm, Thoát Hoan chỉ huy quân về chiếm đóng Vạn Kiếp và ra sức xây dựng căn cứ tại nơi đây để đánh ta lâu dài.
Cùng lúc đó, đoàn thuyền chiến do Ô Mã Nhi chỉ huy theo đường biển tiến vào nước ta rồi ngược sông Bạch Đằng kéo về Vạn Kiếp hợp với quân của Thoát Hoan".
Chuyển ý: Trên cơ sở khẩn trương chuẩn bị đánh giặc của vua Trần, quân ta đã đánh địch ngay từ trận đầu tiên với thuỷ quân địch như thế nào? 
2- Trận Vân Đồn, tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ.
- Giáo viên : Đến cửa biển bạch Đằng :
- Hỏi: Đến cửa biển Bạch Đằng, nhiệm vụ của đoàn thuyền chiến là gì (Ô Mã Nhi bảo vệ đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ ).
- Học sinh đọc sách giáo khoa đoạn 1
- Hỏi: Em có nhận xét gì về việc làm của Ô Mã Nhi ( một việc làm sai lầm, đẩy địch vào tình thế khó khăn)
- Hỏi : Nếu ta phá được đoàn thuyền lương của giặc sẽ có tác dụng gì? 
- Học sinh xem sách giáo khoa.
Giáo viên thông báo: Giặc không có lương ăn, vũ khí, thuốc men sẽ rơi vào tình cảnh khốn đốn.
- Giáo viên thuật lại diễn biến chiến thắng Vân Đồn trên bản đồ (nội dung SGK đoạn 2), cho học sinh thuật lại.
- Giáo viên khẳng định: ý nghĩa chiến thắng Vân Đồn đã tạo thời cơ để nhà Trần mở cuộc phản công tiêu diệt quân giặc.
Chuyển ý: Vậy trận quyết định của quân dân nhà Trân đã phản công giặc ở đâu, kết quả như thế nào, chúng ta tìm hiểu tiếp.
3- Chiến thắng Bạch Đằng
- Giáo viên phân tích khái quát, tình thế của giặc ở trận Vân Đồn đó chính là cơ sở để Trần Hưng Đạo xác định kế hoạch phản công (ta đánh thắng đoàn thuyền lương, giặc lâm vào tình thế lúng túng, trận Vân Đồn thắng lợi).
- Giáo viên thông báo: Nhận thấy thời cơ tiêu diệt giặc, giải phóng đất nước đã tới Trần Quốc Tuấn quyết định mở cuộc phản công và tiến hành bố trí trận địa mai phục ở sông Bạch Đằng.
- Giáo viên đưa lược đồ treo lên bảng và:
+ Miêu tả sông Bạch Đằng (SGK) 
+ Nhận đoán đường rút quân của giặc (SGK)
+ Cách bố trí trận chiến: "Tìm hiểu lịch con nước thuỷ triều lên xuống hàng ngày, Trần Quốc Tuấn cho quân đem cọc gỗ đầu đã vót nhọn bịt sắt rồi đóng xuống lòng sông Bạch Đằng, bố trí các đạo quân mai phục ".
+ Thuật lại diễn biến : "Đầu tháng 4/1288 ..bắt sống - SGK
Như vậy: Toàn cảnh quân thuỷ bị tiêu diệt, đội quân của Yết Kiêu đã trói được Ô Mã Nhi dưới sông rồi dùng câu liêm móc nó lên bờ. Thoát Hoan càng hoảng loạn (tường thuật tiếp SGK - trên bản đồ)
- Giáo viên : Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân Mông - Nguyên ta đã kết thúc thắng lợi vẻ vang, ý đồ xâm lược của nhà Nguyên thực sự bị đè bẹp. Trong lúc đó, nhân dân ta khắp nơi ca khúc khải hoàn 
 Xã tắc hai phen chân ngựa đá
Giang Sơn nghìn thuở vững âu vàng
Sơ kết bài học:
- Để thôn tính Đại Việt nhà Nguyên đã chuẩn bị rất công phu, kỹ lưỡng (hơn cả lần 2 xâm lược - như đã học), nên trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, quân dân Đại Việt đã gặp nhiều khó khăn thử thách .
 Mặc dù vậy, nhà Trần không hề giám sút ý chí kiên quyết lãnh đạo quân dân chuẩn bị kháng chiến và đã chiến đấu dũng cảm, giành được thắng lợi vẻ vang, đặc biệt chiến thắng Vân Đồn và chiến thắng Bạch Đằng lịch sử đã quét sạch hơn 30 vạn quân xâm lược ra khỏi đất nước trong khoảng chưa đầy 4 tháng.
c- Tóm lại: 
Việc vận dụng nội dung cơ bản của đề tài rèn luyện diễn đạt nói trong dạy học lịch sử THCS của mình, của đơn vị mình 4 năm qua, chúng tôi nhận thấy kết quả dạy học có sự chuyển biến rõ rệt.
Nội dung so sánh
Khi chưa vận dụng đề tài
Thực hiện đề tài
- Thầy phát âm chuẩn 
% từ ngữ
% từ ngữ
- Trò phát âm chuẩn 
% từ ngữ
% từ ngữ
- Thầy diễn đạt sinh động
% 
% 
- Trò biết trình bày miệng một vấn đề
% 
% 
- Học sinh nhớ lịch sử 
% 
% 
- Học sinh hiểu lịch sử 
% 
% 
- Học sinh hứng thú học lịch sử 
% 
% 
Kết thúc vấn đề
Như vậy sau 4 năm thực hiện chuyên đề rèn luyện kỹ năng diễn đạt nói trong truyền thụ kiến thức lịch sử THCS " ở nhà trường chúng tôi, chất lượng dạy - học lịch sử của thầy trò chúng tôi có đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Việc rèn luyện và tự tu dưỡng cách diễn đạt nói vẫn thường xuyên và ngày càng được quan tâm thực hiện có nền nép trong nhà trường chúng tôi không chỉ với dạy - học lịch sử mà được quan tâm tới cả các bộ môn học và ở mọi hoạt động toàn diện trong nhà trường nên đã được thể hiện bằng hiệu quả dạy học thực tế của đơn vị.
Nhìn lại quá trình thực hiện chuyên đề, chúng tôi nhận thấy:
 Khi chưa thực hiện chuyên đề	 Đã thực hiện chuyên đề
*Với thầy:
- Chỉ dựa vào sách giáo khoa,	- Phải đầu tư nhiều cho việc học tập
sách giáo viên để chuẩn bị và thực 	nghiên cứu để hiểu sâu, biết rộng
hiện bài giảng nên kiến thức ở giáo	về lịch sử, gia công cho bài dạy kỹ
viên còn mơ hồ.	lưỡng, có sổ tay tích luỹ kiến thức 
	và từ điển thuật ngữ lịch sử 
	(mỗi tuần 1 buổi tự học/gv, 100%
	giáo viên thực hiện)
- Thầy thường dạy chay hay	- Phải chủ động xây dựng bài nói
phát âm ngọng, hay dùng lặp từ hoặc	có bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ
tạo cho học sinh nói đế, nói đệm, diễn	diễn đạt sinh động, trên cơ sở kết 
đạt rời rạc, khô cứng.	hợp với đồ dùng trực quan, với cử 
	chỉ điệu bộ, hợp với trình độ học
	sinh, tạo cho các em hứng thú và dễ
	cảm nhận bài học.
*Với trò: 
- Diễn đạt và phát âm hay tuỳ	- Luôn chú ý rèn luyện trong phát 
tiện	âm và diễn đạt .
- ít chú ý đến phát âm đến chỉnh	- Được thầy thường xuyên nhắc nhở
sửa lời diễn đạt, chưa để ý đến từ ngữ	sửa chữa và rèn cho cách diễn đạt
diễn đạt câu cú 	nên diễn đạt ít sai hơn, phát âm hạn
	chế lỗi hơn.
- Chỉ được nghe thuyết trình	- Được huy động nhiều giác quan 
đơn điệu làm cho không khí lớp học 	vào học tập tạo cho học sinh có khí
nặng nề, học sinh mệt mỏi với học tập	thế nhẹ nhàng, thoả mái với giờ học
- Các em hiểu kiến thức hời hợt	- Hiểu kiến thức sâu sắc và có bản chất của lịch sử.
 - Nhớ ít kiến thức, mau quên bài	- Nhớ được nhiều và nhớ bài học được 
học.	lâu
- ít hứng thú với học lịch sử 	- Hứng thù nhiều với môn lịch sử 
	phần lớn các em thích học tập
	lịch sử thậm chí thích học lịch sử 
	hơn là học toán, học ngữ văn bởi
	các em đã thật sự tự hào về lịch sử 
	và được học bô môn lịch sử .
Một trong cách thức dạy học để góp phần đổi mới nội dung phương pháp dạy học của chúng tôi góp phần thực hiện mục tiêu chất lượng dạy - học của nhà trường chúng tôi là rèn luyện kỹ năng diễn đạt nói trong dạy học lịch sử như trên tôi đã khái quát trình bầy. Nhờ đó đến nay, chất lượng dạy học lịch sử của chúng tôi nâng lên rõ ràng; Chất lượng đại trà thường đạt % (khảo sát), Vậy bài học rút ra từ việc thực hiện đề tài này là gì ? để chúng ta đã và tiếp tục cùng nhau tham khảo thực hiện.
ii- những bài học kinh nghiệm
1- Việc vận dụng rèn luyện kỹ năng" diễn đạt nói trong truyền thụ kiến thức lịch sử THCS "được nhà trường chúng tôi quan tâm và thường xuyên vận dụng, tạo cho dạy học lịch sử thực sự có hứng thú trong dạy học nhiều năm qua. Song để có được kết quả này, thầy trò cần phải:
a) Với thầy:
- Có ý thức tự rèn luyện kỹ năng nói, tự sửa hoặc nhờ đồng nghiệp thường xuyên sửa sai khi có khuyết tật phát âm.
- Tạo ra nhiều hoạt động giao tiếp như thảo luận, tham gia ngoại khoá chuyên đề, sinh hoạt tập thể... để mỗi thầy, mỗi trò luôn được làm quen, không rụt rè, mạnh dạn phát biểu trước tập thể, rèn kỹ năng diễn đạt, thái độ bình tĩnh, mạnh bạo trước đông người.
- Thường xuyên suy nghĩ, tìm tòi tự rèn cách diễn đạt, có vốn từ phong phú, kiến thức lịch sử sâu, rộng, vững vàng, có nhiệt huyết với dạy học lịch sử ( có sổ tu từ, từ điển thuật ngữ lịch sử , sổ tay tư liệu).
b)Với học sinh .
- Hoạt động học tập không chỉ giáo viên diễn đạt mà học sinh phải được "diễn đạt bằng lời" vì vậy, thầy phải hướng dẫn các em rèn luyện diễn đạt nói.
- Biết trình bày một vấn đề, một mục trong bài rõ ràng, khúc chiết, dễ hiểu( ví dụ : Dựa vào sách giáo khoa để trình bày về diễn biến chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang của thầy hướng dẫn trò từ cuối giờ học trước để trò dựa vào sách giáo khoa, chuẩn bị trước bài ở nhà cho giờ học trên lớp ( thầy đã chuẩn bị kỹ trước đó ).
- Học sinh được thảo luận trình bày miệng trên lớp tích cực theo sự hướng dẫn của thầy trên cơ sở SGK, lược đồ, niên biểu, các em tự nhận xét trình bầy của nhau, sửa cho nhau, thầy bổ khuyết, động viên ... tạo cho giờ sinh động, hấp dẫn.
b- Tuy nhiên phần trình bày của chúng tôi trên đây cũng còn lúng túng. Việc giảng dạy của giáo viên ở nhiều nhà trường trong huyện còn nhiều bất cập (đào tạo chưa chu đáo, chuyên môn nặng nề) nên nhận thức lịch sử còn hạn chế, đầu tư thời gian và ý thức đầu tư cho rèn luyện nói trong dạy học chưa cao, học sinh vùng thôn quê chưa có điều kiện tập trung vào học tập ... Vì vậy chất lượng dạy học, trong đó có chất lượng "diễn đạt nói" trong dạy học, chuyển biến chưa nhiều.

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn su thcs(1).doc