Dạy học sinh học ở trường THCS là một vấn đề có ý nghĩa và tầm quan trọng rất lớn đối với nghề nghiệp và tương lai của mỗi người và toàn xã hội.
Là người thấy ai cũng muốn mình được mọi người tôn vinh, kính trọng, ai cũng muốn mình là niềm tin là chỗ dựa vững chắc cho học sinh của mình, ai cũng muốn học sinh đạt được kết quả cao, vận dụng tốt kiến thức của bộ môn mình giảng dạy, vận dụng tốt lý thuyết vào các bài thực hành và thực tiễn cuộc sống.
Lời nói đầu Dạy học sinh học ở trường THCS là một vấn đề có ý nghĩa và tầm quan trọng rất lớn đối với nghề nghiệp và tương lai của mỗi người và toàn xã hội. Là người thấy ai cũng muốn mình được mọi người tôn vinh, kính trọng, ai cũng muốn mình là niềm tin là chỗ dựa vững chắc cho học sinh của mình, ai cũng muốn học sinh đạt được kết quả cao, vận dụng tốt kiến thức của bộ môn mình giảng dạy, vận dụng tốt lý thuyết vào các bài thực hành và thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt đối với môn sinh học – Môn khoa học thực nghiệm, một khoa học mở, luôn luôn mới và rất trừu tượng. Mỗi một tiết học, một kiểu bài lên lớp đòi hỏi phải có những phương pháp khác nhau, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của bài. Làm sao để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt hơn nữa là “bài thực hành” trong chương trình sinh học là một vấn đề rất khó, để dạy thành công một bài thực hành đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi, nghiên cứu phương pháp phù hợp và qua thử nghiệm mới có thể thành công. Tuy nhiên khả năng thành công của mỗi tiết dạy còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Qua thực tế giảng dạy môn sinh học 9 tôi xin ghi lại một vài nét có thể coi là sáng kiến, kinh nghiệm để bạn bè, đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp ý kiến để một tiết thực hành thành công theo mong muốn. Đích cuối cùng của chúng ta là làm thế nào để học sinh nhận thức và vận dụng tốt kiến thức vào thực hành và thực tế cuộc sống. Tôi xin ghi nhận và trân thành cảm ơn những ý kiến xây dựng và đóng góp của các bạn. Phần I: Mở đầu I/ Lý do chọn đề tài 1. Cơ sở khoa học lí luận: Nhiệm vụ ở trường THCS là bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người làm chủ đất nước trong tương lai. Đây là những chủ nhân tương lai được giác ngộ lí tưởng cách mạng, lí tưởng xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật toàn diện, có sức khoẻ, sự thông minh, cần cù, sáng tạo để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Để có được điều đó cần đến vai trò rất quan trọn của người thầy. Thầy phải là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có lòng nhiệt tình, tâm huyết nghề nghiệp, bên cạnh đó thầy phải biết vận phù hợp các phương pháp dạy – học với từng kiểu bài, từng nội dung kiến thức để giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức lí thuyết vào thực hành và thực tiễn cuộc sống. Đó là cơ sở lý luận khiến tôi chọn vấn đề nghiên cứu này. 2. Cơ sở thực tiễn. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn sinh học tôi nhận thấy việc vận dụng lý thuyết học tập của học sinh vào các bài thực hành và thực tiễn cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn. Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, khoa học mở luôn luôn mới, kiến thức sinh học chủ yếu được hình thành bằng phương pháp quan sát, mô tả, tìm tòi thực nghiệm. Vậy mà học sinh lại gặp khó khăn trong vấn đề này thì quả đây là một điều rất đáng quan tâm vì nó liên quan trực tiếp đến sự phát triển trí tuệ của cả một thế hệ tương lai. Đó là cơ sở thực tiễn, là lí do chủ quan thôi thúc tôi quan tâm, trăn trở lựa chọn nghiên cứu vấn đề này. II/ mục đích nghiên cứu. Qua nghiên cứu tôi muốn nêu lên vấn đề là làm thế nào để 1 tiết dạy thực hành đạt hiệu quả cao, giúp học sinh thoát khỏi những khó khăn vướng mắc khi làm thực hành. Ta đã biết mục đích của giáo dục không chỉ đơn thuần là giúp học sinh nắm bắt tri thức mà phải hướng dẫn các em cách tiếp thu và vận dụng tri thức như thế nào. Vì vậy, qua nghiên cứu tôi muốn nêu ra một vài ý kiến về vấn đề dạy một tiết thực hành sinh học như thế nào để thu được hiệu quả cao nhất. Đó là mục đích nghiên cứu của đề tài. IIi/ đối tượng, Phạm vi nghiên cứu. 1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu ở đây là vấn đề dạy 1 tiết thực hành trong chương trình sinh học lớp 9 - Đối tượng nhận thức ở đây là HS lớp 9A , 9B của trường THCS Chiên Sơn do tôi trực tiếp giảng dạy. 2. Phạm vi nghiên cứu. Vấn đề tôi trình bày được hình thành qua 13 bài thực hành đã học trong chương trình sinh học lớp 9 mà tôi đã được dạy trong những năm học trước. Iv/ nhiệm vụ nghiên cứu. Là giải quyết tất cả các bài thực hành trong chương trình sinh học lớp 9 bao gồm các bài: Bài 1: Tính xác suất xuất hiện trong các mặt của đồng xu. (Vận dụng giải thích quy luật Di truyền của MenĐen) Bài 2: Quan sát hình thái nhiễm sắc thể. Bài 3: Quan sát và lắp mô hình AND. Bài 4: Nhận biết một vài dạng đột biến. Bài 5: Quan sát thường biến. Bài 6: Tập dượt thao tác giao phấn. Bài 7: Tìm hiểu thành tựu chọn giống vật nuôi và cây trồng. Bài 8 + 9: Tìm hiểu môi trường và ảnh hưởng của một số nhân tố sinh thái lên đời sống sinh vật. Bài 10 + 11: Hệ sinh thái. Bài 12 + 13: Tìm hiểu tình hình môi trường địa phương. v/ các Phương pháp nghiên cứu chính. - Các phương pháp: Quan sát, mô tả, thí nghiệm, thực nghiệm. - Phương pháp tạo nhu cầu nhận thức có mong muốn tìm hiểu các hiện tượng sinh học. - Phương pháp hướng dẫn học sinh tự lực tham gia vào các hoạt động học tập. - Tạo điều kiện cho học sinh bộc lộ khả năng nhận thức, trình bày và tự bảo vệ ý kiến của mình khi thảo luận, tranh luận. - Khuyến khích học sinh thắc mắc, nêu tình huống có vấn đề và tham gia giải quyết vấn đề khi quan sát cũng như khi tiến hành thực hành, thí nghiệm, làm báo cáo. Phần II: Nội dung. I/ Cơ sở lý luận khoa học. 1. Vai trò của thực hành - thí nghiệm trong dạy học sinh học. - Biểu diễn thí nghiệm là phương pháp quan trọng nhất để tổ chức học sinh nghiên cứu, giải thích các hiện tượng sinh học. - Thí nghiệm là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan, là cơ sở xuất phát cho quá trình nhận thức của học sinh. - Thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và thực hành để đi đến thực tiễn. Vì vậy nói là phương pháp, phương tiện duy nhất giúp hình thành ký năng, kĩ xảo thực hành là cơ sở của tư duy kĩ thuật. - Thí nghiệm giúp học sinh đi sâu tìm hiểu bản chất các hiện tượng, các quá trình sinh học. - Thí ngiệm do giáo viên biểu diễn là mẫu mực về thao tác là cơ sở chuẩn kiến thức để học sinh quan sát, nhận xét và bắt chước. Dần dần, khi học sinh biết cách và tự tiến hành được thí nghiệm đó là cơ sở đối chứng giúp học sinh hình thành kĩ năng, kĩ xảo thực hành thí nghiệm, phát hiện kiến thức. - Thí nghiệm có thể được sử dụng để tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh với các mức độ khác nhau: Thông báo, tái hiện (bắt chước) tìm tòi bộ phận, giải thích, chứng minh, nghiên cứu tìm kiến thức mới - Tóm lại: Thí nghiệm được sử dụng đề nghiên cứu bài mới, củng cố, hoàn thiện kiến thức, kiểm tra, đánh giá kiến thức. Đặc biệt thí nghiệm có vai trò rất quan trọng đối với việc dạy – học một bài thực hành. thí nghiệm có thể do giáo viên biểu diễn, hoặc do học sinh tự tiến hành. thí nghiệm có thể tiến hành trên lớp, trong phòng thí nghiệm, ngoài vườn, ngoài đồng ruộng hoặc tại nhà. 2. Bản chất của phương pháp thực hành- thí nghiệm. - Thực hành, thí nghiệm theo lô gíc nghiên cứu thì bản thân nó là nguồn tri thức mới cho học sinh, nó là điểm xuất phát cho quá trình tìm tòi của học sinh để đi đến việc hình thành kiến thức mới. - Trong bài thực hành thì thí nghiệm lại là nguồn kiến thức vừa có vai trò xây dựng cái mới, vừa có vai trò củng cố, hoàn thiện và kiểm chứng, chứng minh một vấn đề đã được nhắc đến. - Bằng hệ thống câu hỏi có tính chất định hướng giáo viên đã kích thích hứng thú, sự tìm tòi độc lập sáng tạo của học sinh. - Bằng tài liệu quan sát được từ thí nghiệm do giáo viên biểu diễn hoặc bản thân học sinh tự tiến hành, giúp học sinh có thể phân tích, so sánh, thiết lập mối quan hệ nhân quả, trả lời các câu hỏi để đi tới các kết luận khái quát, phản ánh bản chất của vấn đề hay hiện tượng sinh học. Như vậy, với phương pháp này, học sinh ở vị trí của người nghiên cứu, chủ động hành động giành tri thức nên sự lĩnh hội kiến thức được sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Thực hành thí nghiệm nghiên cứu gồm các bước sau: + Giới thiệu mục đích, yêu cầu thực hành – thí nghiệm + Tổ chức phân tích các điều kiện thí nghiệm. + Giới thiệu các bước, các thao tác tiến hành thí nghiệm. + Giới thiệu các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong quá trình thí nghiệm. + Thiết lập các mối quan hệ nhân – quả từ kết quả thí nghiệm. - Để học sinh nắm được mục đích, điều kiện thực hành thí nghiệm, giáo viên nên giới thiệu trước cho học sinh, cách tốt nhất là để học sinh tự xác định. Quan sát thí nghiệm là hoạt động nhận thức tự lực của học sinh ở đây, thầy chỉ có vai trò là người cố vấn, theo dõi, giám sát và là trọng tài ghi nhận những thành tích phát hiện tri thức của học sinh. - Việc rút ra kết luận, báo cáo thu hoạch là giai đoạn cuối cùng, quan trọng nhất trong quá trình thực hành thí nghiệm tức là sau khi học sinh thực hành thí nghiệm giải thích các hiện tượng, quá trìnhíinh học xảy ra 1 cách phù hợp lô gíc đáp ứng mục đích, yêu cầu đề ra ban đầu thì vấn đề đã được giải quyết. II/ Kết quả nghiên cứu: Qua trình nghiên cứu thực hiện tôi nhận thấy: 1. Thực trạng của quá trình dạy tiết thực hành sinh học ở trường THCS Chiên Sơn. - Từ thực tế điều kiện dân trí và kinh tế của một xã thuộc khu vực miền núi, điều này dẫn tới học sinh cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện 1 tiết thực hành. Giáo viên cũng gặp khó khăn trong giảng dạy. Nguyên nhân dẫn đến kết quả của các bài thực hành chưa đạt được đến mức mong muốn là do: Thiếu đồ dùng, trang thiết bị thiết yếu cho một số tiết thực hành, học sinh khó khăn về kinh tế nên chưa chuẩn bị tốt các mẫu vật theo yêu cầu. Do chương trình có sự phân phối ở một số bài chưa phù hợp với thực tế, tình hình mùa vụ của địa phương. Mặt khác môn sinh học là một khoa học thực nghiệm, môn khoa học mở, luôn luôn mới và rất trừu tượng. Các em phải tự làm thí nghiệm để tìm kiến thức, qua phương pháp hoạt động nhóm, học sinh phải tích cực để tìm tòi, làm thí nghiệm để đi đến kết luận, giải quyết các vấn đề đặt ra một cách độc lập sáng tạo, làm được báo cáo thu hoạch theo yêu cầu tránh những hạn chế trong học tập. Tuy nhiên không phải tất cả các em đều làm được thí nghiệm, đều viết được báo cáo, không phải giáo viên nào cũng dạy thành công các bài thực hành theo yêu cầu. 2. Kết quả nghiên cứu: Từ thực trạng nêu trên đã chi phối không nhỏ đến kết quả của 1 tiết dạy thực hành sinh học 9. - Giáo viên và học sinh phải tận dụng triệt để 45’ trên lớp để tổ chức giảng dạy và học tập, có như vậy mới phát huy hết vai trò tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, mới đảm bảo cho học sinh tiếp thu hết kiến thức của tiết học. - Đối với 1 tiết thực hành, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức cho học sinh hoạt động giúp học sinh tự tìm ra kết luận và ghi nhớ được kiến thức. Học sinh là trung tâm của mọi hoạt động, sau khi đã nhận được mục đích, yêu cầu của tiết thực hành học sinh lập tức hoạt động nhóm để tiến hành các thí nghiệm tìm tòi dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Đối với môn sinh học việc chuẩn bị tốt đồ dùng, mẫu vật cho 1 tiết thực hành là yếu tố quan trọng quyết định sự ... hất của hiện tượng. - Thí nghiệm phải đơn giản, vừa sức học sinh tránh những thí nghiệm quá phức tạp, tránh những yêu cầu quá trừu tượng. Hơn nữa thời gian cho thí nghiệm phải hợp lí để đảm bảo thu được kết quả thật sát thực tiễn. - Sau khi thực hành thí nghiệm cần tổ chức cho học sinh thảo luận theo hệ thống câu hỏi và kết quả quan sát thu được sau khi thực hành thí nghiệm. Sau khi thảo luận nhất thiết giáo viên phải nhận xét, đánh giá và kết luận kiến thức chuẩn để học sinh điều chỉnh nhận thức nếu cần. - Phối hợp một cách hợp lí thực hành thí nghiệm với lời nói của giáo viên, tuỳ theo lô gíc của sự phối hợp này mà tính chất hoạt động nhận thức của học sinh khác nhau. Nếu ở phương pháp thực hành thí nghiệm – nghiên cứu thì thí nghiệm là nguồn thông tin cho học sinh còn lời nói của giao viên giữ vai trò hướng dẫn thì trong phương pháp thực hành thí nghiệm – thông báo tái hiện, lời nói của giáo viên là những thông tin chính xác còn thí nghiệm chỉ là để minh hoạ, chứng minh, xác nhận thông tin. - Việc lựa chọn lô gíc phối hợp giữa lời nói của giáo viên và thực hành thí nghiệm là tuỳ thuộc vào mức độ phức tạp của nội dung nghiên cứu, vào năng lực tư duy và trình độ của mỗi học sinh. - Đối với những sự kiện, hiện tượng hay cơ chế đơn giản có thể rút ra kết luận nhờ sự quan sát trực tiếp không cần suy luận bằng các thao tác lô gíc phức tạp thì lời nói của giáo viên chỉ có tính chất hướng dẫn sự quan sát chứ không phải là nguồn cung cấp thông tin dạy – học. - Như vậy, trong trường hợp nội dung bài đơn giản thì giáo viên dùng lời nói giới thiệu trước, sau đó biểu diễn thí nghiệm minh hoạ hoặc cho học sinh tự làm thí nghiệm – quan sát để nhận biết kiến thức. Còn đối với những hiện tượng phức tạp thì nên tổ chức cho học sinh quan sát thực hành thí nghiệm theo lô gíc nghiên cứu, như vậy sẽ có hiệu quả rèn luyện trí thông minh, tư duy sáng tạo để hình thành kĩ năng, kĩ xảo do học sinh phải sử dụng các biện pháp trí tuệ, học sinh sẽ lĩnh hội tri thức một cách chủ động, sâu sắc hơn. Đây chính là hiệu quả của thực hành thí nghiệm trong dạy tiết thực hành sinh học 9. Trong phương pháp này lời nói của giáo viên có 3 chức năng: + Hướng dẫn học sinh quan sát để nắm vững những giai đoạn chính của hiện tượng. + Hướng dẫn học sinh chủ động kiến thức lí thuyết đã học để giải thích, kết luận hiện tượng quan sát được trong bài thực hành. + Trên cơ sở thu được kết quả quan sát thí nghiệm, học sinh tự rút ra kết luận. 2. Các bước lô gíc khi thực hành – thí nghiệm. - Bước 1: Đặt vấn đề. Thông báo đề tài nghiên cứu, nêu mục tiêu, yêu cầu nghiên cứu để kích thích sự tự giác và hứng thú ban đầu của người học. - Bước 2: Phát hiện vấn đề. Nêu mục đích cụ thể hơn, vạch rõ những thành phần cấu thành chủ đề nghiên cứu để có sự định hướng cụ thể. - Bước 3: Đề xuất giả thiết của bài, dự đoán các phương án giải quyết, vạch ra kế hoạch giải quyết. - Bước 4: Thực hiện kế hoạch giải quyết. - Bước 5: Đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Nếu kết quả thực hiện kế hoạch không phù hợp với giả thiết khoa học đã nêu ra thì quay lại bước 3, đề xuất giả thiết khác. Nếu việc thực hiện kế hoạch đưa đến kết quả chính xác, xác nhận giả thiết đúng thì chuyển sang bước 6. Bước 6: Phát biểu kết luận. 3. Những điều cần lưu ý khi thực hành thí nghiệm. a. Thí nghiệm nghiên cứu nhất thiết phải có phần đối chứng để kiểm tra kết quả thí nghiệm, giúp học sinh tìm được mối quan hệ nhân quả của các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm. Việc xác định yếu tố thí nghiệm và đối chứng được thực hiện ở bước 4 và 5 với các thí nghiệm minh hoạ thì đơn giản hơn không nhất thiết phải có đối chứng. b. Phải đảm bảo tính sư phạm, tính khoa học của việc biểu diễn thí nghiệm như: Nơi bối trí thí nghiệm phải đủ ánh sáng, cả lớp phải quan sát rõ được, các thao tác thí nghiệm phải thành thạo, bảo đảm thí nghiệm thành công, dự đoán trước những thắc mắc của học sinh có thể đưa ra khi quan sát thí nghiệm, lường trước những thất bại có thể xảy ra để giải thích cho học sinh rõ nguyên nhân, tránh làm mất lòng tin đối với học sinh. c. Trong dạy – học sinh học có thể có những thí nghiệm dài ngày nên có thể bố trí ở vườn trường, góc sinh giới, trong chuồng trại, ruộng thí nghiệm (loại thí nghiệm trong bài thực hành “tập dượt thao tác giao phấn” – Tiết 41 đầu học kỳ II). Có loại thí nghiệm chỉ đòi hỏi thời gian ngắn (thí nghiệm về sinh lý – sinh hoá) có thể thực hiện ngay tại lớp. d. Đối với thí nghiệm diễn tả cùng một bản chất hay cùng một quy luật trong những điều kiện khác nhau, giáo viên nên biểu diễn song song để cho hiệu quả cao hơn hình thức biểu diễn lần lượt từng thí nghiệm. Phần iii: Kết luận: I/ Quá trình áp dụng của bản thân. Trong thực tế giảng dạy, tôi đã vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học sinh học, đặc biệt là bài thực hành. Biến học sinh thành chủ thể của quá trình học tập, đưa các em vào vị trí chủ động, đòi hỏi các em phải tích cực suy nghĩ, tư duy bằng những câu hỏi có tính chất nêu vấn đề, gợi mở được lồng luôn trong những tình huống có vấn đề được đưa ra. Ví dụ bài 20_Thực hành: quan sát và lắp mô hình ADN tôi thực hiện như sau : -Bước 1: Nêu mục tiêu, yêu cầu của bài thực hành: +Củng cố kiến thức về phần cấu trúc phân tử ADN +Rèn được kĩ năng quan sát và phân tích mô hình ADN +Rèn được thao tác lắp ráp mô hình ADN -Bước2: Phát hiện vấn đề,nêu mục đích cụ thể: +Quan sát cụ thể trên mô hình cấu trúckhông gian của phân tử ADN .Quan sát mô hình: Quan sát chi tiết sự sắp sếp các nucleotit, vị trí của các phần đó phản ánh chiều soắn,vị trí tương đối của 2 mạch nuleotit, đường kính vòng soắn, số cặp nuleotit trong mỗi vòng soắn,sư liên kết các nucleotit giữa 2 mạch. .Chiếu mô hình: Dùng nguồn sáng chiếu mô hình, so sánh với hình 15 trong sách giáo khoa. +Lắp ráp mô hình cấu trúc không gian của phân tử ADN; HS tháo lắp thành thạo đúng theo trình tự -Bước 3: Giáo viên phân nhóm ,cử nhóm trưởng, thư ký, học sinh quan sát +Khi quan sát giáo viên đặt câu hỏi cho các nhóm Ví dụ : .Vị trí tương đối 2 mạch ? .Chiều soắn 2 mach? .Giữa 2 mạch các nuclêôtit liên kết như thế nào? . Đếm số cặp nucleotit? -Bước 4 : Hoc sinh thực hiện + Học sinh nêu được phân tử ADN gồm có 2 mạch đơn chạy song song với nhau soắn quanh 1 trục theo chiều từ trái sang phải, một chu kì có 10 cặp nucleotit, giữa 2 mạch nucleotit A liên kết nucleotit T và G liên kết X và ngược lại,tháo lắp thành thạo đúng chiều Bước 5: Đánh giá nhân xét thu tường trình Nhân xét: Qua bài thực hành học sinh nắm trắc kiến thức hơn yêu bộ môn hơn không gây áp lực cho học sinh. Bước 6: phát biểu kết luận Ví dụ: Tiết 6 – Thực hành: Tính xác suất xuất hiện các mặt của đồng xu. Thực chất vấn đề rất đơn giản: - Giáo viên: Nêu mục tiêu, yêu cầu của bài học. - Hướng dẫn học sinh làm theo nhóm (trực tiếp thí nghiệm) + Gieo 1 đồng kim loại. + Gieo 2 đồng kim loại. - Thống kê kết quả vào bảng mẫu. Vấn đề bắt đầu phát sinh ở chỗ giáo viên yêu cầu học sinh. - Từ kết quả trên bảng đ liên hệ. + Kết quả gieo 1 đồng xu (Bảng 6.1) gợi cho ta điều gì về tỷ lệ các loại gia tử sinh ra từ con lai F1 (A a). + Kết quả gieo 2 đồng xu (Bảng 6.2) gợi cho ta liên hệ tới điều gì về tỷ lệ kiểu gen ở F2 trong lai 1 cặp tính trạng của Menđen? Qua đó từ kết quả của thực hành thí nghiệm đòi hỏi học sinh phải vận dụng tư duy liên hệ sang để giải thích một vấn đề khác không nhắc đến khi thực hành thí nghiệm. II/ hiệu quả khi áp dụng. Khi áp dụng chuyên đề này tôi thu được những kết quả khả quan - Khi chưa áp dụng: Số học sinh nắm bắt kiến thức một cách hời hợt, thụ động, chủ yếu là trông dựa vào các bạn khác làm để chép cho có đủ bài, không hiểu bản chất vấn đề, không giải thích được hiện tượng xảy ra. Chỉ có khoảng 65% các em làm được thực hành thí nghiệm và tự viết được báo cáo. - Khi áp dụng: Hầu hết các em được kích thích hứng thú học tập, chủ động tham gia thực hành thí nghiệm và giải thích thảo luận kết quả. Số em viết hoàn thiện báo cáo thu hoạch và giải thích một cách tương đối sâu sắc các vấn đề xảy ra là trên 90%. Các em đều rất hồ hởi khi có giờ thực hành vì các em được làm chủ, được độc lập nghiên cứu, tranh luận và bảo vệ vấn đề mình tranh luận. III/ Kiến nghị - đề xuất. - Quá trình thực nghiệm trong thực tế giảng dạy tôi đã thu được kết quả rất khả quan. Mặc dù áp dụng trên 2 lớp 9 với rất nhiều đối tượng khác nhau. Vì vậy tôi nhận thấy chuyên đề này của tôi có tính khả thi cao. Mong bạn bè, đồng nghiệp tham khảo, mong nhà trường tạo điều kiện để được áp dụng rộng rãi hơn. - Với nhà trường: Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên được đi tập huấn chuyên môn – nghiệp vụ, đi học tập nâng cao trình độ, để phục vụ tốt cho quá trình dạy – học đạt hiệu quả cao nhất. Iv:kết luận. - Tôi nghiên cứu vấn đề này có thể nói đây chỉ là một sáng kiến, kinh nghiệm nhỏ của riêng tôi, nhưng tôi rất mong muốn được bạn bè, đồng nghiệp tham khảo, đóng góp, xây dựng để có 1 phương pháp dạy học tốt nhất, đặc biệt đối với môn sinh học và các bài thực hành trong chương trình sinh học. - Đề tài này của tôi gắn liền với thực tiễn công tác giảng dạy ở trường THCS Chiên Sơn. Nó góp phần khắc phục những khó khăn, yếu kém của học sinh trong quá trình học tập 1 tiết thực hành nói riêng và bộ môn sinh học nói chung. - Về mặt lí luận, đề tài này vẫn hội tụ đầy đủ nội dung, tính chất đặc thù của phương pháp dạy học sinh học ở trường THCS. Bên cạnh đó còn hàm chứa tất cả các yêu cầu và nội dung tất yếu của phương pháp dạy học tích cực trong đó có phương pháp đặc thù bộ môn sinh học là: Thực hành thí nghiệm – Trực quan và dùng lời. ị Trên đây là những điều tôi thu được qua thực nghiệm nghiên cứu và thực tế giảng dạy. Tuy nhiên trong quá trình trình bày chắc không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong được sự góp ý của ban giám hiệu, tổ chuyên môn và bạn bè đồng nghiệp. Hết * Tài liệu tham khảo - Giáo dục học đại cương. - Tâm lí học đại cương. - Tâm lí học dạy học và tâm lí học sư phạm. - Phương pháp dạy – học môn sinh học THCS. - Hoạt động dạy – học ở trường THCS. - Một số chuyên đề – SKKN của bản thân và bạn bè đồng nghiệp. - SGK – SGV sinh học 9 và một số tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Mục lục - Lời nói đầu. 1 Phần I: Mở đầu. 2 I/ Lí do chọn đề tài 2 II/ Mục đích nghiên cứu 2 III/ Đối tượng nghiên cứu nghiên cứu. 3 IV/ Nhiệm vụ nghiên cứu 3 V/ Các phương pháp nghiên cứu chính 3 Phần II: Nội dung. 5 I/ Cơ sở lí luận khoa học. 5 II/ Kết quả nghiên cứu. 6 III/ Giải pháp . 8 Phần III. Kết luận 12 I/ Quá trình áp dụng của bản thân. 12 II/ Hiệu quả khi áp dụng. 13 III/ Kiến nghị - đề xuất. 14 III/ Kết luận chung. 14 - Tài liệu tham khảo. 16 - Mục lục. 17 đánh giá bài tập nghiên cứu khoa học Điểm Ngày 30 tháng 10 năm 2009 Ban chỉ đạo Giáo viên hướng dẫn (Ký tên, đóng dấu)
Tài liệu đính kèm: