Đề tài Nâng cao chất lượng trong giờ dạy môn sinh học lớp 9

Đề tài Nâng cao chất lượng trong giờ dạy môn sinh học lớp 9

Sinh học là môn khoa học nghiên cứu về vi sinh sinh vật, thực vật, động vật và con người, sự tiến hoá của giới thực vật, động vật và con người. Sự tiến hoá của giới thực vật và động vật nguồn gốc của con người. Tại sao có loài tồn tại đến ngày nay và có loài tiệt chủng. Sinh học phản ánh mọi mặt của cuộc sống xã hội góp phần hình thành phát triển hoàn thiện nhân cách cho học sinh theo mục tiêu giáo dục. Nó là chìa khoá để học sinh tiến vào mọi lĩnh vực khoa học, mọi hoạt động xã hội, nó có tác dụng sâu sắc và lâu bền đến đời sống tâm hồn trí tuệ con người.

doc 16 trang Người đăng HoangHaoMinh Lượt xem 5945Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Nâng cao chất lượng trong giờ dạy môn sinh học lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	I. Lý do chọn đề tài
	1. Cơ sở lý luận
	Sinh học là môn khoa học nghiên cứu về vi sinh sinh vật, thực vật, động vật và con người, sự tiến hoá của giới thực vật, động vật và con người. Sự tiến hoá của giới thực vật và động vật nguồn gốc của con người. Tại sao có loài tồn tại đến ngày nay và có loài tiệt chủng. Sinh học phản ánh mọi mặt của cuộc sống xã hội góp phần hình thành phát triển hoàn thiện nhân cách cho học sinh theo mục tiêu giáo dục. Nó là chìa khoá để học sinh tiến vào mọi lĩnh vực khoa học, mọi hoạt động xã hội, nó có tác dụng sâu sắc và lâu bền đến đời sống tâm hồn trí tuệ con người. Các bài mà học sinh học là tiếng nói của tình cảm, là khí giới thanh cao đắc lực có tác dụng mạnh mẽ đến tư tưởng tình cảm cảm xúc của con người. M xim G.Ki đã từng nói “Sinh học giúp con người hiểu được bản thân mình, làm nảy nở ở con người những khát vọng hướng tới chân lý”
	Trải qua những thăng trầm của lịch sử sinh học không ngừng phát triển nó đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp giáo dục học sinh trong nhà trường phổ thông trở thành những người có ích tài đức, xây dựng xã hội và bảo vệ tổ quốc. Ngay nay xã hội ngày càng đổi mới đòi hỏi con người cần phải tiến kịp với tiến bộ trong xã hội. Chính vì vậy việc giảng dạy trong nhà trường càng cần phải đổi mới cho phù hợp với sự vận động đi lên của thời đại. Giờ dạy sinh học cần phải đạt chất lượng cao giúp các em lĩnh hội được những tinh hoa của cuộc sống. Từ đó giúp các em hình thành và hoàn thiện nhân cách của minh hơn nữa.
	Cho nên việc dạy sinh học cần được nâng cao chất lượng. Cần được giáo viên quan tâm. Vậy muốn đáp ứng yêu cầu trên đòi hỏi người giáo viên cần phải có phương cách chủ động. Vì vậy qua thực tế giảng dạy cộng với sự học hỏi kinh nghiệm của các pháp giảng dạy phù hợp, phát huy được khả năng nhận thức của HS đối với bộ môn một đồng nghiệp. Tôi đã rút ra được cho mình một số phương pháp dạy học tích cực.
	Cơ sở xuất phát của đề tài này là nâng cao chất lượng trong giờ dạy sinh học ở trường THCS. Đề tài này dựa trên cơ sở thực tiễn trong quá trình giảng dạy môn sinh học lớp 9 tại trường THCS Xuất Hoá.
	2. Cơ sở thực tiễn
	Hiện nay tôi đang giảng dạy môn sinh học khối 8, 9 và môn hoá học lớp 8A3 tại trường THCS Xuất Hoá. Đây là trường học tiếp cận với trung tâm huyện, các em có điều kiện thuận lợi tiếo nhận các thông tin văn hoá, tìm hiểu bộ môn nên ít nhiều các em có sự yêu thích học tập bộ môn này. Song không phải học sinh nào cũng có sự say mê cũng có hứng thú học tập và khả năng phát huy tính độc lập suy nghĩ của bản thân, nhiều học sinh còn mải chơi, lười học . Để nâng cao chất lượng trong giờ dạy sinh học. Tôi đã bắt đầu áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực hướng cho các em cách tìm tòi, cách quan sát, phân tích phát hiện những kiến thức mới của bài học.
	II. Quá trình thực nghiệm
	1. Các biện pháp tiến hành để nâng cao chất lượng môn sinh đặc biệt trong giờ sinh học lớp 9.
	- Để tạo ra hứng thú học sinh học và tạo ra niềm say mê đối với các em . Trước hết người giáo viên cần làm cho các em hiểu rõ vị trí vai trò của môn học này, đồng thời gieo vào lòng các em những cảm xúc tốt đẹp và tâm lý thích học tập môn sinh.
	Mỗi một bài học trong chương trình đều phù hợp với tâm lý, trình độ nhận thức lứa tuổi HS. Vì vậy giáo viên cần phải nắm nội dung cần trình bày trong bài học để truyền tải cái hay , cái đẹp, cái giá trị đích thực của bài học đối với học sinh.
	Học sinh luôn luôn hướng tới cái đẹp của cuộc sống con người vì vậy chức năng chủ yếu của dạy sinh học là sự thẩm mỹ cái hay, cái đẹp đó. Muốn vậy chúng ta phải tuân theo quy luật dạy học đI từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
	Để nâng cao chất lượng trong một giờ dạy sinh học để kích thích được niềm say mê hứng thú học tập đối với HS hình thành trong các em tâm hồn nhân cách tốt đẹp đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ theo đúng quy luật này mới đạt được hiệu quả cao.
	Để nắm được tình hình học tập của học sinh khối 9 tôi phải tiến hành kiểm tra chất lượng đầu năm. Kết quả thu được như sau: 
	Lớp 9A1: Tổng số HS 42 HS.
	Giỏi: 0	TB: 20	Kém: 9
	Khá: 3 	Yếu: 10 
	Lớp 9A2: Tổng số HS 40 HS.
	Giỏi: 0	TB: 20	Kém: 5
	Khá: 5 	Yếu: 10 
	Lớp 9A3: Tổng số HS 36 HS.
	Giỏi: 0	TB: 15	Kém: 5
	Khá: 10 	Yếu: 6 
	Sau khi năm được kết quả chung về chất lượng của HS tôi đã tiến hành phân loại mức độ nhận thức của HS và kỹ năng bộ môn. Từ đó đưa ra một số phương pháp giảng dạy phù hợp như sau: 
	a. Phương pháp dạy học tích cực. 
 	Trong phương pháp tích cực người học đối tượng của hoạt động dạy đồng thời là chủ thể của hoạt động học . Được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ chức và chỉ đạo . Thông qua đó tự khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt trong tình huống của đời sống thực tế người học trực tiếp quan sát thảo luận làm thí nghiệm giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình từ đó vừa nắm được kiến thức kỹ năng mới, vừa nắm được phương pháp làm ra kiến thức, kỹ năng đó, không dập theo khuân mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
	Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh, với sự bùng nổ thông tin, khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào đầu óc trẻ khối lượng kiến thức ngày càng nhiều, phải quan tâm dạy cho trẻ phương pháp học ngay từ bậc tiểu học và càng lên bậc cao hơn càng phải được chú trọng. Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học , khơi dạy nội lực vốn có trong mỗi người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Không chỉ tự học ở nhà sau bài học trên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn trực tiếp của thầy.
	Tăng cường học tập cá thể , phối hợp với học tập hợp tác, trong một lớp học mà trình độ kiến thức tư duy của HS không thể đồng đều tuyệt đối thì áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hoá về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ cao thì sự phân hoá này càng lớn. Tuy nhiên trong học tập không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành thuận lợi bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy trò, trò – trò tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận cụ thể , ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ , khẳng định hay bác bỏ. Qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi HS và cả lớp chứ không phải chỉ dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của thầy giáo. Trong nhà trường phương pháp học tập tương tác được tổ chức ở nhóm 2 người, nhóm vài người, tổ, lớp hoặc trường, được sử dụng phổ biến trong dạy học và hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 – 6 người . Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc thực sự xuất hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ có thể có hiện tượng ỷ lại. Tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn phát triển tình bạn, ý thức tổ chức tinh thần tương hỗ trợ mô hình hợp tác trong XH đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động. 
	Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học việc đánh giá HS không chỉ nhằm mục đích nhận định hiện trạng bọc và điều chỉnh hoạt động dạy của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng học và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trước đây GV thường giữ độc quyền đánh giá HS. Trong phương pháp tích cực GV phải hướng dẫn HS phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học GV cần tạo điều kiện thuận lợi để HS được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời. Việc kiểm tra đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức lặp lại các kỹ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị kỹ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với GV mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy chỉ đạo hoạt động học từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, GV không đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức GV trở thành người thiết kế , tổ chức hướng dẫn các hoạt động học độc lập hoặc theo nhóm nhỏ. Trên lớp HS hoạt động là chính GV có vẻ nhà nhã hơn nhưng hiểu được khi soạn giáo án GV đã phải đầu tư công sức thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn trọng tài trong các hoạt động tìm tòi, hào hứng tranh luận sôi nổi của HS, GV phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức hướng dẫn các hoạt động của HS mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của GV.
	b. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề.
	Tư duy chỉ bắt đầu ở nơi xuất hiện tình huống có vấn đề. Tình huống có vấn đề chứa đựng một nhiệm vụ cần giải quyết một vướng mắc cần tháo gỡ mà kết quả là HS có kiến thức mới, phương pháp hoạt động mới. (S. L Rubinstêin)
	- Ba thành phần cấu thành tình huống có vấn đề.
	+ Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học
	+Yêu cầu tìm kiểm những tri thức, phương thức hành động mà người học chưa biết. 
	Vốn tri thức và kinh nghiệm của người chứa đựng khả năng giải quyết tình huống đặt ra.
	- Dạy học nêu vấn đề - Ơristic có 3 đặc trưng cơ bản sau: 
	+ GV đặt ra trước HS một loạt những bài toán nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái phải tìm nhưng nó được cấu trúc lại một cách sư phạm gọi là bài toán Ơristic .
	HS tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán Ơristic như mâu thuẫn của nội tâm mình và đặt vào tình huống có vấn đề tức là trạng thái nhu cầu bên trong bức thiết muốn giải quyết bằng bài toán đó.
	Trong và bằng cách tổ chức giải bài toán nhận thức mà HS lĩnh hội một cách tự giác và tích cực cả kiến thức cả cách giải quyết và do đó có được niềm vui và sự nhận thức sáng tạo “Đặt vấn đề” được hiểu là vấn đề có thể do GV hoặc do chính HS đặt ra. GV tổ chức tạo tình huống có vấn đề để HS tự lực phát hiện nhận dạng, phát biểu vấn đề được đặt ra cùng nhau giải quyết dạy học đặt – giải quyết vấn đề gồm 3 bước lớn : Đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, kết luận. Qua đó HS vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được phương pháp đi tới kiến thức đó. Dạy học đặt, giải quyết vấn đề không dễ thực hiện, GV chưa có nhiều mẫu cụ thể để học tập vận dụng, GV muốn thực hiện nhưng thiếu  ... t cách chi tiết kế hoạch chi tiết của bạn sẽ giúp bạn thực hiện một hoạt động nhóm có hiệu quả và bạn không lo “cháy giáo án” do hoạt động bị kéo dài mất thời gian.
	d. Dạy học bằng tổ chức các hoạt động khám phá, học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đi học. Tính tích cực học tập về thực chất là tính tích cực hoạt động nhận thức đặc trưng ở khát vọng hiểu biết cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh nội dung học tập bằng con đường khám phá khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học quá trình nhận thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều loài người chưa biết mà nhằm lĩnh hội những tri thức mà loài người đã tích luỹ được. Tuy nhiên trong học tập HS cũng phải được “khám phá” ra những kiến thức mới đối với bản thân. HS sẽ thông hiểu ghi nhớ và vận dụng linh hoạt những gì mình đã nắm được qua hoạt động chủ lực khám phá của chính mình. Đó là chưa đến khi đạt tới một trình độ nhất định thì sự học tập tích cực sẽ mang lại tính nghiên cứu khoa học và người học cũng sẽ tìm ra những tri thức mới cho khoa học. Khác với khám phá trong nghiên cứu khoa học khám phá trong học tập không phải là quá trình mò mẫm tự phát như trong quá trình skinner mà là một quá trình có hướng dẫn của GV, trong đó GV khéo léo dạy học sinh vào địa vị người phát hiện lại người khám phá những tri thức di sản văn hoá của loài người, của dân tộc GV không cung cấp những những kiến thức mới bằng phương pháp thuyết trình – giải thích - minh hoạ mà bằng phương pháp tổ chức các hoạt động khám phá để tự học sinh chiếm lĩnh tri thức mới.
	Các hoạt động học tập khám phá trong tiết sinh học, các hoạt động quan sát và thí nghiệm có thể được thể hiện theo phương pháp trực quan (HS xem GV biểu diễn) hoặc theo phương pháp thực hành (HS trực tiếp thao tác trên đối tượng nghiên cứu) trong phương pháp thực hành tích cực của HS đưcợ phát uy cao hơn trong phương pháp trực quan. Trong quan sát HS dùng mắt thường hoặc có sự trợ giúp của kính lúp, kinh hiển vi, hay nói rộng ra là dùng các giác quan để tri giác trực tiếp có mục đích, đối tượng nghiên cứu theo dõi ghi chép các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và không can thiệp vào chúng. Khác với quan sát trong thí nghiệm người nghiên cứu tác động vào đối tượng bằng những điều kiện nhân tạo nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của một hoặc một vài yếu tố xác định tập trung theo dõi sự diễn biến của đối tượng dưới một vài khía cạnh xác định. Trong hoạt động thí nghiệm cũng có hoạt động quan sát cơ bản là quan sát so sánh giữa thí nghiệm với đối chứng . Cả trong quan sát và thí nghiệm đều phải vận dụng thao tác tư duy so sánh phân tích tổng hợp trừu tượng hoá khái quát hoá vận dụng suy lý quy nạp và diễn dịch thì mới phát hiện được bản chất tính quy luật của hiện tượng đang nghiên cứu. Quá trình này có thể được diễn ra trong suy nghĩ của từng cá nhân HS nhưng sẽ có hiệu quả hơn khi biết phối hợp hợp lý giữa sự suy nghĩ độc lập của từng cá nhân với sự hợp tác thảo luận trong nhóm nhỏ. Bởi vậy có thể nói quan sát và thảo luận nhóm thí nghiệm và thảo luận nhóm là các dạng hoạt động thường dùng nhất trong các bài sinh học ở trường THCS.
	Điều kiện thực hiện dạy học bằng các hoạt động khám phá HS phải có những kiến thức kỹ năng cần thiết để thực hiện các hoạt động khám phá do giáo viên tổ chức và phải xác định rõ những kiến thức có được sau hoạt động khám phá. Đa số HS chứ không phải chỉ một vài HS trong lớp có khả năng thực hiện thành công hoạt động được nêu ra. Sự hướng dẫn của GV cho mỗi hoạt động ở mức cần thiết không quá ít, cũng không quá nhiều bảo đảm HS phải hiểu chính xác họ phải làm gì trong mỗi họat động khám phá. Muốn vậy GV phải hiểu rõ khả năng của HS, hoạt động khám phá phải được GV giám sát trong quá trình HS thực hiện nhất là lúc ban đầu đề phong có nhóm HS đi trệch hướng quá xa. GV cần chuẩn bị một số câu hỏi gợi mở để giúp HS tự học đi tới mục tiêu của hoạt động là những kiến thức mới, khó mà HS có được. Nếu là hoạt động tương đối dài có thể là từng chặng yêu cầu một vài nhóm HS cho biết kết quả tìm tòi phải có đủ thời gian cho mỗi hoạt động khám phá được nêu ra .Nếu ra đề nhiều hoạt động khiến HS phải chạy đuổi theo thời gian, không kịp suy nghĩ thảo luận thì chỉ là hình thức. GV phải nắm thật vững nội dung bài học và có kinh nghiệm cần thiết trong việc tổ chức hoạt động khám phá có hướng dẫn lúc đầu còn ít kinh nghiệm thì nên trao đổi giáo án với những đồng nghiệp có kinh nghiệm hơn để tránh những thất bại làm nản lòng giáo viên và HS. SGK phải chuyển từ cách viết truyền thống quen thuộc (thông báo, giải thích minh hoạ) sang cách viết kiểu mới (Tổ chức các hoạt động tìm tòi khám phá) để buộc GV và HS phải thay đổi cách dạy, cách học. Muốn vậy dung lượng kiến thức trong một bài học phải hợp lý thì thầy trò mới có dư thời gian tổ chức hoạt động khám phá. Hướng đổi mới này phải được cán bộ quản lý giáo dục, GV, HS phụ huynh và xã hội nhiệt tình ủng hộ tránh việc làm phản tác dụng như sách giải sẵn mới vừa được in ra, trên thị trường đã thấy loại sách “tham khảo” giải sẵn các bài toán nhận thức các câu hỏi kích thích tư duy sáng tạo được thiết kế trong SGK.
	Sau đây là một bài soạn tôi đã áp dụng các phương pháp dạy học trên
	Bài soạn: Quần thể người
	I. Mục tiêu.
	1. Kiến thức.
	- Nêu được một số đặc điểm cơ bản của quần thể người liên quan đến vấn đề dân số.
	- Giải thích được vấn đề dân số trong xã hội.
	2. Kỹ năng.
	- Rèn luyện kỹ năng trao đổi nhóm làm việc với SGK.
	3. Thái độ
	- Xây dựng ý thức về kế hoạch hóa gia đình và thực hiện pháp lệnh dân số.
	II. Chuẩn bị.
	- Phiếu học tập, bảng phụ.
	III. Tiến trình bài giảng.
Thời lượng
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
2’
8’
8’
7’
10’
ổn định lớp
- GV kiểm tra sỹ số lớp
Kiểm tra bài cũ
? Quần thể sinh vật là gì?
Những đặc trưng cơ bản của quần thể sinh vật
Bài mới
- GV phát phiếu học tập ghi nội dung bảng 48.1 SGK và yêu cầu các em tham khảo SGK để thực hiện lện.
- GV nhận xét bổ sung treo bảng phụ công bố kết quả 
- GV lưu ý: Sự khác nhau giữa quần thể người có lao động và có tư duy nên có khả năng tự điều chỉnh các đặc điểm sinh tháI trong quần thể cấu tạo thiên nhiên.
- GV treo tranh phóng to hình 48 SGK cho HS quan sát và yêu cầu các em làm việc với SGK
- GV lưu ý: Nhóm tuổi trước so sánh từ sơ sinh đến 15 tuổi. Nhóm tuổi so sánh và lai động từ 15 – 64 tuổi. Nhóm tuổi hết khả năng lao động nhọc 65 tuổi trở lên. GV gọi 3 HS lên bảng (đánh dấu x vào các ô trồng để hoàn thành bảng 48.2 SGK)
- GV nhận xét, bổ sung, xác nhận đáp án.
GV yêu cầu HS tìm hiểu SGK thảo luận nhóm để trả lời câu hỏi sau: 
? Hậu quả của tăng dân số quá nhanh là gì? 
? Để hạn chế ảnh hưởng xấu của việc tăng dân số quá nhanh cần phảI làm gì? 
Củng cố, dặn dò
- Yêu cầu HS đọc mục ghi nhớ, mục “Em có biết” 
? trả lời câu hỏi 1, 2, 3 SGK (145)
- Yêu cầu học bài cũ và chuẩn bị trước bài mới
- Lớp trưởng báo cáo sỹ số
I. Sự khác nhau giữa quần thể người với ác quần thể sinh vật khác. Từng HS tự lực hoàn thành phiếu học tập rồi trao đổi nhóm thống nhất đáp án và cử đại diện trình bày trước lớp.
+ Đặc điểm ở quần thể người, giới tính, lứa tuổi, mật độ, SS, tử vong.
+ Đặc điểm không có ở quần thể SV pháp luật, kinh tế, hôn nhân, GD VH.
- HS chú ý nghe giảng.
II. Đặc trưng về thành phần nhóm tuổi của mỗi quần thể người.
- HS quan sát tranh phóng to hình 48 SGK tham khảo SGK thảo luận nhóm để xác định câu trả lời.
+ Dạng tháp a.Nước có tỉ lệ trẻ em sinh ra hàng năm nhiều . Nước có tỉ lệ tử vong ở người trẻ tuổi cao, nước có tỉ lệ tăng trưởng dân số cao, dạng tháp dân số trẻ
+ Dạng tháp b: Nước có tỉ lệ trẻ em sinh ra hàng năm nhiều, nước có tỉ lệ tăng trưởng dân số cao, dạng tháp dân số trẻ.
- Dạng tháp c: Nước có tỉ lệ người già nhiều dạng tháp dân số già.
III. Tăng dân số và phát triển xã hội.
Dưới sự hướng dẫn của GV, các nhóm thảo luận và đưa ra đáp án .
+ Hậu quả của tăng dân số quá nhanh, thiếu nơI ở, thiếu lương thực, thiếu trường học, bệnh viện, ô nhiễm môI trường, chặt phá rừng, chậm phát triển kinh tế, tắc nghẽn giao thông.
+ Mỗi quốc gia cần phát triển dân số hợp lý và thực hiện pháp lệnh dân số để đảm bảo chất lượng cuộc sống của cá nhân, gia đình, xã hội. Số con sinh ra phảI phù hợp với khả năng nuôI dưỡng, chăm sóc của mỗi gia đình và hài hoà với sự phát triển kinh tế xã hội, tài nguyên môI trường của đất nước.
- 1 HS đọc mục ghi nhớ 1 HS đọc mục “Em có biết”
- HS tiếp thu lời căn dặn của GV.
	Rút kinh nghiệm giờ dạy, HS hiểu bài, nắm được kháI niệm quần thể người, sự khác nhau giữa quần thể người và quần thể sinh vật	.
	III. Kết quá thực nghiệm
	Sau khi áp dụng các phương pháp giảng dạy trên lớp trong một thời gian đối với K9 cùng một đối tượng HS với đặc điểm nhận thức như nhau kết quả đã được nâng lên rất nhiều.
Lớp
Số HS
Khá giỏi
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A1
42
5
11,9
28
66,7
9
21,4
0
0
9A2
40
11
27,5
26
65
3
7,5
0
0
9A3
36
15
41,7
20
55,6
1
2,7
0
0
	IV. Một số bài học kinh nghiệm
	Qua lý luận và qua thực tiễn giảng dạy bản thân tôi đã rút ra được những bào học kinh nghiệm nhằm giúp cho việc nâng cao chất lượng dạy học môn sinh lớp 9 ở trường phổ thông.
	Giáo viên phảI thực sự nhiệt tình say mê đối với việc giảng dạy môn sinh học.
	Yêu nghề, mến trẻ , hiểu được tâm lý học sinh.
	Tích cực học hỏi trao đổi kiến thức nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
	- Soạn giảng chu đáo có sự sáng tạo trong giảng dạy kích thích hứng thú, phát huy được tính tích cực của HS trong tiết học.
	Tổ chức cho các em hoạt ngoại khoá kết hợp vừa học vừa chơi , tích cực sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học để gây hứng thú học tập bộ môn. Có phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng , tránh áp đặt đọc chép.
	Xây dựng cho HS động cơ học tập đúng đắn, tôn trọng ý kiến của HS. Đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp phát huy được tính tích cực chủ động tự giác trong các giờ học.
	- Luôn chấm chữa bài đúng, chính xác, có rút kinh nghiệm, uốn nắn kịp thời những sai sót của HS, phối hợp chặt chẽ với gia đình để giáo dục các em thông qua bộ môn.
	Làm cho các em thấy được tầm quan trọng trong việc học sinh học. HS học không chỉ là nghĩa vụ mà còn là nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày.
	Qua quá trình áp dụng các học này tôi thấy chất lượng được nâng lên một cách rõ rệt, giờ học sôI nổi hơn, kỹ năng thí nghiệm thực hành, quan sát, phân tích, thảo luận nhóm thu thập thông tin của các em ngày càng thành thạo hơn đặc biệt là các em ngày càng yêu thích bộ môn sinh hơn. 
	Trên đây là những kinh nghiệm ít ỏi của tôi về việc làm thế nào để “nâng cao chất lượng trong một giờ dạy sinh học lớp 9 ở trường THCS” Tôi nghĩ rằng nó còn rất thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến chỉ bảo tận tình của các đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn chỉnh hơn.
	Tôi xin chân thành cảm ơn!
	Xuất Hoá, ngày 28 tháng 4 năm 2007
	Người viết

Tài liệu đính kèm:

  • docsinh 9(75).doc