Giáo án môn Ngữ văn khối 9 - Ngữ pháp Tiếng Việt

Giáo án môn Ngữ văn khối 9 - Ngữ pháp Tiếng Việt

Ngữ pháp tiếng Việt

Từ loại, cụm từ, cấu tạo từ

Từ loại

Cho đến nay, chủ yếu có hai phương pháp phổ biến để phân định từ loại: phân chia từ vựng của một ngôn ngữ thành hai lớp khái quát là thực từ và hư từ; hoặc phân chia từ vựng thành nhiều lớp cụ thể hơn với các đặc trưng xác định hơn. Đây là các cách phân chia của ngữ pháp truyền thống châu Âu. Lịch sử nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt có hai xu hướng: một xu hướng cho rằng từ vựng tiếng Việt không được định loại vì chúng không có một dấu hiệu hình thức nào cả, nói cách khác là không tồn tại từ loại trong tiếng Việt. Tuy nhiên số đông các nhà nghiên cứu tiếng Việt vẫn cho rằng tiếng Việt vẫn có từ loại và tồn tại những dấu hiệu khách quan để định loại. Và việc phân loại cũng theo hai cách: phân biệt thực từ và hư từ; phân biệt thành những lớp ngữ pháp cụ thể. Hiện nay trong tiếng Việt có thể phối hợp hai cách phân loại này.

 Việc phân định từ loại tiếng Việt theo cách thứ hai thành những lớp từ cụ thể chủ yếu căn cứ vào ba tiêu chuẩn:

1. Ý nghĩa khái quát: có tác dụng tập hợp các từ có cùng kiểu ý nghĩa khái quát thành các lớp (và lớp con); ví dụ như ý nghĩa về sự vật, về hành động, về trạng thái, về tính chất, về quan hệ,.; đến lượt ý nghĩa khái quát về sự vật lại được chia nhỏ thành ý nghĩa khái quát về vật thể (ví dụ các từ nhà, cửa, cây.), về chất thể (ví dụ nước, khí, muối.), v.v.

 

doc 30 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 647Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn khối 9 - Ngữ pháp Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngữ pháp tiếng Việt
Từ loại, cụm từ, cấu tạo từ
Từ loại
Cho đến nay, chủ yếu có hai phương pháp phổ biến để phân định từ loại: phân chia từ vựng của một ngôn ngữ thành hai lớp khái quát là thực từ và hư từ; hoặc phân chia từ vựng thành nhiều lớp cụ thể hơn với các đặc trưng xác định hơn. Đây là các cách phân chia của ngữ pháp truyền thống châu Âu. Lịch sử nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt có hai xu hướng: một xu hướng cho rằng từ vựng tiếng Việt không được định loại vì chúng không có một dấu hiệu hình thức nào cả, nói cách khác là không tồn tại từ loại trong tiếng Việt. Tuy nhiên số đông các nhà nghiên cứu tiếng Việt vẫn cho rằng tiếng Việt vẫn có từ loại và tồn tại những dấu hiệu khách quan để định loại. Và việc phân loại cũng theo hai cách: phân biệt thực từ và hư từ; phân biệt thành những lớp ngữ pháp cụ thể. Hiện nay trong tiếng Việt có thể phối hợp hai cách phân loại này.
 Việc phân định từ loại tiếng Việt theo cách thứ hai thành những lớp từ cụ thể chủ yếu căn cứ vào ba tiêu chuẩn:
Ý nghĩa khái quát: có tác dụng tập hợp các từ có cùng kiểu ý nghĩa khái quát thành các lớp (và lớp con); ví dụ như ý nghĩa về sự vật, về hành động, về trạng thái, về tính chất, về quan hệ,...; đến lượt ý nghĩa khái quát về sự vật lại được chia nhỏ thành ý nghĩa khái quát về vật thể (ví dụ các từ nhà, cửa, cây...), về chất thể (ví dụ nước, khí, muối...), v.v...
Khả năng kết hợp, được hiểu ở ba mức độ như sau: 
Khả năng kết hợp của từ đang xét với với một hay một số hư từ, từ đó nói được bản tính từ loại của từ đang xét. Những hư từ trong trường hợp này được gọi là các chứng tố. Và với chứng tố, thường chỉ xác định được ba lớp từ chính trong tiếng Việt là: lớp danh từ, lớp động từ và lớp tính từ. Ví dụ: những từ có thể đứng trước các chỉ định từ này, nọ thì thuộc lớp danh từ; những từ có thể đứng sau đang, vẫn... thì thuộc lớp động từ; những từ đứng sau rất thường thuộc lớp tính từ.
Khả năng kết hợp của từ đang xét được đặt trên cơ sở cách cấu tạo của cụm từ chính phụ. Với cách này, có thể xác định thêm lớp các phó từ của động từ (có nét gần gụi với các phụ từ và một số trạng từ adverd ngôn ngữ châu Âu).
Khả năng kết hợp từ với từ, không chỉ tính đến các yếu tố không nằm trong cụm từ, thông qua các tiêu chuẩn sau: khả năng làm đầu tố trong cụm từ chính phụ; khả năng làm yếu tố mở rộng trong cụm từ chính phụ; không tham gia vào cụm từ chính phụ, chỉ xuất hiện ở bậc câu nhưng có thể có quan hệ với cụm từ chính phụ trong các trường hợp cụ thể.
Chức vụ ngữ pháp: Khả năng giữ chức vụ ngữ pháp trong một câu thường được dùng như một tiêu chuẩn hỗ trợ cho việc phân định từ loại.
Động từ tiếng Việt
1. Động từ độc lập
Động từ độc lập là động từ có ý nghĩa đầy đủ, có thể một mình đảm đương chức năng ngữ pháp trong cụm từ hoặc câu. Ví dụ: đi, làm, chạy, nhảy, múa.
Động từ độc lập có thể được phân loại thành những nhóm nhỏ hơn như: động từ biểu thị hành động/hoạt động, động từ biểu thị trạng thái, động từ biểu thị tư thế, động từ biểu thị quá trình 
Sự phân biệt các nhóm động từ thường dựa trên hai tiêu chí: tiêu chí ngữ nghĩa và tiêu chí ngữ pháp. Ví dụ, xét về mặt thể hiện ý nghĩa ngữ pháp, trước hết cần phân biệt hai nhóm động từ quan trọng, đó là:
- Động từ biểu thị hành động/ hoạt động vật lý như: ăn, uống, đánh, đẩy, cắt, kéo, chạy, nhảy, leo, trèo.
- Động từ biểu thị hoạt động hoặc trạng thái tâm lí như: thích thú, biết, hiểu, cảm thấy, lo lắng, sợ, tôn trọng, do dự, hồi hộp, mong ước, mơ ước, kính nể.
Sự phân biệt các loại động từ có liên quan đến khả năng kết hợp của chúng. Các động từ biểu thị hoạt động vật lí có thể kết hợp với các từ biểu thị kết quả của hành động, hoạt động như: xong, rồi, nhưng phần lớn các động từ biểu thị hoạt động hoặc trạng thái tâm lí thường không thể kết hợp với các từ đó, hoặc chỉ có thể kết hợp rất hạn chế và sẽ cho một ý nghĩa khác. Ví dụ: Có thể nói: Tôi ăn xong rồi, nhưng không thể nói: Tôi tôn trọng xong rồi. Khi nói: “Tôi sợ anh rồi.” thì rồi mang một ý nghĩa khác: bắt đầu. (Sẽ nói rõ thêm ở chương sau)
Trong cả hai loại động từ này, ta có thể phân biệt nội động từ và ngoại động từ. 
+ Nội động từ biểu thị hành động, hoạt động hoặc trạng thái không thể tác động trực tiếp tới một đối tượng khác, ví dụ: ngủ, nằm, đi, đứng, suy nghĩ. 
+ Ngoại động từ biểu thị hành động, hoạt động hoặc trạng thái có thể tác động trực tiếp lên một đối tượng khác hoặc tạo ra một đối tượng khác, ví dụ: đào, tìm, bắt, xây, viết, mua, sản xuất.
Khi tạo ra lối nói bị động, ta chỉ có thể sử dụng ngoại động từ. Ví dụ: Họ đang đào đường → Đường đang bị họ đào.
Tuy nhiên, trong tiếng Việt, một số động từ có thể vừa mang tính chất nội động vừa mang tính chất ngoại động. Ví dụ: Động từ đi, chạy về nguyên tắc không phải là ngoại động từ nhưng người Việt vẫn sử dụng như là một ngoại động từ (ví dụ: “Nó đi quân mã để ra xe cho nhanh.”, hoặc: “Hai vợ chồng đang bận chạy trường tốt cho con.“
2. Động từ không độc lập
Động từ không độc lập là động từ không biểu thị một nội dung ý nghĩa hoàn chỉnh (ý nghĩa hành động, hoạt động hay trạng thái) do đó, về nguyên tắc, không thể đứng một mình để đảm đương một chức năng ngữ pháp mà đòi hỏi phải có một từ khác (ví dụ: danh từ, động từ ) đi theo sau để bổ sung ý nghĩa.
Có thể nêu những động từ không độc lập sau đây:
- Động từ tình thái: Là những động từ biểu thị quan hệ chủ quan (thái độ, sự đánh giá, ý muốn, ý chí) của người nói đối với nội dung của câu nói hoặc với hiện thực khách quan. Có thể phân biệt những nhóm động từ tình thái sau đây:
+ Động từ biểu thị sự đánh giá về mức độ cần thiết: nên, cần, phải, cần phải.
+ Động từ biểu thị sự đánh giá về khả năng: có thể, không thể/chưa thể.
+ Động từ biểu thị sự đánh giá về may rủi: bị (tai nạn), được (nhà), mắc, phải (ví dụ: mắc căn bệnh nhà giàu, phải một trận đòn).
+ Động từ biểu thị thái độ mong mỏi: trông, mong, chúc, ước, cầu, muốn.
+ Động từ biểu thị mức độ của ý chí, ý muốn: dám, định, nỡ, buồn (thường dùng nhiều hơn với nghĩa phủ định), thôi, đành.
- Động từ biểu thị sự tồn tại: Là những động từ biểu thị tình trạng tồn tại thực tế của sự vật hay hiện tượng. Thuộc nhóm này có 3 động từ, đó là:
+ Động từ biểu thị sự tồn tại bổ sung hoặc hoặc tiếp tục tồn tại của sự vật, hiện tượng: còn. Ví dụ:
- Trong nhà còn hai người nữa.
- Trong túi tôi còn tiền.
+ Động từ biểu thị sự tồn tại: có. Ví dụ:
- Trên đỉnh núi có một ngôi chùa.
- Trong nhà có tiếng khóc.
+ Động từ biểu thị sự kết thúc tồn tại của sự vật, hiện tượng: hết. Ví dụ:
- Trong nhà hết sạch tiền rồi.
- Động từ quan hệ: Là những động từ dùng để biểu thị quan hệ giữa sự vật và bản chất hay chức năng của sự vật: là, làm. Ví dụ:
- Im lặng là vàng.
- Hồi làm giám đốc, ông ấy đã từng mắc tội tham nhũng.
Cần nói thêm rằng, sự phân biệt trên đây nhiều khi chỉ mang tính chất tương đối, vì trong thực tế một số động từ tiếng Việt có thể vừa là động từ độc lập vừa là động từ không độc lập, ví dụ như động từ có hay động từ làm.
3. Cấu tạo động từ mới
Để tạo ra các động từ mới, tiếng Việt chủ yếu ghép các động từ với nhau hoặc ghép động từ với một danh từ, tính từ hay một hình vị trống nghĩa theo những loại quan hệ nhất định. Ví dụ:
- Ghép động từ với động từ: học tập, buôn bán, chạy nhảy, mua sắm, gào thét, vay mượn, ăn uống, thay đổi, ăn chơi.
- Ghép động từ với danh từ: ra lệnh, trả lời, đánh gió, ăn giá ,ăn sương, làm dáng, làm khách, nói chuyện, đánh thuế.
- Ghép động từ với tính từ: làm cao, làm giàu, nói cứng, nói khó, đánh ghen, nghỉ mát, đổi mới.
- Ghép động từ với một hình vị trống nghĩa (hoặc được coi là trống nghĩa): viết lách, chạy chọt, rửa ráy, nói năng, sửa sang.
Ngoài ra, còn có thể ghép danh từ hoặc tính từ với động từ để tạo ra động từ, ví dụ: công nghiệp hóa, bình thường hóa, chính trị hóa, mưu toan, mưu sát, buồn ngủ, nóng chảy, nóng ăn.
Động từ là từ loại chỉ một hành động, cử chỉ, hành vi nào đó của chủ thể. Ví dụ: ăn, đi, ngủ, bơi...
Danh từ tiếng Việt
1. Danh từ riêng
1.1. Khái niệm Danh từ riêng 
- Danh từ riêng trong tiếng Việt là từ chỉ tên người, tên đất, tên cơ quan, tổ chức, tôn giáo, phong trào, tên gọi các thời đại, tên các loại sách báo và tên gọi những ngày lễ, tết trong năm. 
- Danh từ riêng có thể là từ thuần Việt, như: Bông, Cám, Tèo, Bột, nhưng cũng có thể là tên Hán-Việt, như: Nguyệt, Trường, Dũng, Đông Kinh, Kinh Bắc, hoặc là tên phiên âm từ các thứ tiếng Ấn-Âu, như: Hêlêna, Giôn, Ađam, Pari, Béclin.
- Trước đây, các danh từ riêng Ấn-Âu thường được phiên âm qua tiếng Hán nhưng ngày nay, tiếng Việt áp dụng cách phiên âm trực tiếp từ nguyên ngữ hoặc từ một ngôn ngữ Ấn-Âu khác được sử dụng rộng rãi trên thế giới (ví dụ: tiếng Anh, tiếng Pháp).
1.2 Cách viết danh từ riêng
- Cách viết tên người:
+ Tên người Việt Nam, Trung Quốc (đọc theo âm Hán-Việt) hoặc tên người nước khác được phiên âm qua tiếng Hán: Viết hoa tất cả các chữ đầu của âm tiết và không dùng dấu nối, Ví dụ: Trần Văn Tạo; Đinh Tiên Hoàng; Lý Bạch; Lỗ Tấn; Thành Cát Tư Hãn.
+ Tên người nước ngoài được phiên âm trực tiếp hoặc thông qua một ngôn ngữ Ấn-Âu khác:
Hiện vẫn được viết theo hai cách:
1) Viết hoa chữ cái đầu của tên gọi, các âm tiết viết liền nhau và không có gạch nối, ví dụ: Frăngxoa; Ivan; Napôlêông, Ađam;
2) Viết hoa chữ cái đầu của tên gọi, các âm tiết viết cách nhau và giữa các âm tiết có gạch nối, ví dụ: Na-pô-lê-ông, Frăng-xoa, Oa-sinh-tơn, Huy-gô. 
Tuy nhiên, để có thể đạt được sự thống nhất trong việc dạy viết trong các trường học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quy định tạm thời về việc viết tên riêng trong sách giáo khoa, theo đó cách viết thứ hai được chọn sử dụng (tạm thời) làm cách viết chuẩn.
- Cách viết tên địa lí:
+ Tên địa lí Việt Nam, Trung Quốc (đọc theo âm Hán-Việt) và tên địa lí của các nước khác phiên âm qua tiếng Hán: Viết hoa các chữ đầu của âm tiết và không dùng dấu nối. ví dụ: Sầm Sơn, Hạ Long, Bắc Kinh, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Phần Lan.
+ Tên địa lí đọc theo âm Việt hoặc âm Hán-Việt có kèm theo từ chỉ phương hướng hay vị trí đã trở thành một bộ phận của tên gọi: Viết hoa tất cả các chữ cái đầu âm tiết, ví dụ: Đông Nam Á, Tây Âu, Bắc Mỹ, Bắc Triều Tiên, Đông Âu.
+ Tên các nước hoặc các vùng lãnh thổ và tên địa lí của các nước khác được phiên âm trực tiếp hoặc phiên âm qua một thứ tiếng Ấn-Âu khác:
Hiện vẫn tồn tại hai cách viết:
1) Viết hoa chữ cái đầu và viết liền các âm tiết, giữa các âm tiết không có dấu gạch nối, ví dụ: Chilê, Braxin, Oasinhtơn, Mátxcơva, Tôkyô (Tokyo), và
2) Viết hoa chữ cái đầu và viết cách các âm tiết, giữa các âm tiết có dùng dấu gạch nối, ví dụ: Béc-lin, Pa-ri, Mát-xcơ-va, Tô-ky-ô. 
Cách viết thứ hai phù hợp với quy định tạm thời của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Cách viết quốc hiệu, tên cơ quan, tổ chức, phong trào:
Hiện vẫn tồn tại hai cách viết:
+ Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu. Nếu trong quốc hiệu hoặc tên tổ chức hay cơ quan bao gồm tên riêng khác thì  ...  CTCP đề – thuyết, khi tiêu điểm chỉ rơi vào một bộ phận của thuyết, chẳng hạn:
- Tiêu điểm là bổ ngữ:
13) a. Bà// tìm ai, thưa bà?
b. Tôi// tìm người quen. (Nguyễn Công Hoan)
- Tiêu điểm là trạng ngữ:
14) a. Anh// gặp nó bao giờ?
b. Tôi// gặp nó hôm qua.
2.1.2. CTTT tiêu điểm – cơ sở
Khác với kiểu CTTT trên, ở kiểu CTTT này tiêu điểm đứng ở vị trí đầu phát ngôn, trước phần cơ sở. Các phát ngôn kiểu này có CTCP đề – thuyết nghịch hướng trật tự với CTTT: đề đóng vai trò là tiêu điểm thông tin còn thuyết là cơ sở. Trong diễn ngôn hội thoại, các câu có đề trùng với tiêu điểm và thuyết trùng với phần cơ sở khi đề được được dùng để biểu thị tiêu điểm (hỏi, khẳng định hoặc tương phản). Ví dụ:
15) Thầy ơi, thầy! Tại sao//thầy nói thế? (Vũ Trọng Phụng)
16) a. Ai bảo anh ở lại?
b. Ai bảo! Con chó bảo. (Nam Cao)
17) a. Ai bảo mày//gạ gẫm tao?
b. Ai// gạ gẫm nhà anh. Có anh// quyến rũ tôi thì có. (Nam Cao)
Trong diễn ngôn đơn thoại, các câu có đề trùng với tiêu điểm và thuyết trùng với cơ sở khi đề biểu thị thông tin mới, còn thuyết biểu thị là thông tin cũ, đã được nói đến trong những câu trước, ví dụ:
18) (Rận không phải là tên thật của lang ta. Đó là tên của bà cựu đặt cho anh). Nhưng tại sao//bà lại đặt cho anh cái tên khổ sở ấy? (Nam Cao)
19) (Nhà chị binh ở gần đường). Ông phó đi đánh bạc đêm về// cũng tạt vào; anh trương tuần đi tuần// cũng tạt vào; anh hàng xóm// cũng mò sang; thậm chí đến cái thằng hương điền đầu hai thứ tóc, già đời làm đấy tớ cho lý trưởng//, cũng mon men vào gạ gẫm. (Nam Cao)
2.2. CTTT xen kẽ cơ sở và tiêu điểm
Các CTTT xen kẽ cơ sở và tiêu điểm có tiêu điểm đứng xen vào bộ phận cơ sở, hoặc ngược lại, có bộ phận cơ sở đứng xen vào giữa các tiêu điểm, tạo thành kiểu CTTT sau đây:
2.2.1. CTTT cơ sở – tiêu điểm – cơ sở
Trong CTTT của câu, tiêu điểm có thể đứng trước hoặc sau bộ phận cơ sở như trên đã thấy, nhưng cũng có trường hợp tiêu điểm thông tin xen vào giữa cơ sở thông tin, tạo nên kiểu CTTT cơ sở – tiêu điểm – cơ sở. Trường hợp này xảy ra khi:
- Tiêu điểm thông tin không trùng hoàn toàn với đề mà chỉ trùng với một bộ phận của đề, chẳng hạn định ngữ:
20) a. Thế xe của ai //để ở ngoài kia?
b. Xe anh Nam// đấy
21) Anh nghi cho ai lấy tiền của anh? (Nguyễn Công Hoan)
- Tiêu điểm thông tin chỉ trùng với một bộ phận của phần thuyết, chẳng hạn, trùng với vị từ trung tâm:
22) a. (Xe của anh đâu)?
b. Tôi//bán nó rồi.
2.2.2. CTTT tiêu điểm – cơ sở – tiêu điểm
Ở kiểu CTTT này, bộ phận cơ sở xen vào giữa 2 tiêu điểm thông tin của câu. Đây là kiểu CTTT thường gặp của các câu hỏi có hai tiêu điểm hỏi ở đầu và cuối câu và các câu trả lời tương ứng. Ví dụ:
23) a. Ai// hỏi gì đấy?
b. Bác ấy// hỏi tiền nong gì chả biết. (Nam Cao)
24) a. Ai// mắng ai thế?
b. Bà ngoại// mắng dì Tư.
2.3 CTTT chỉ có tiêu điểm
2.3.1 CTTT có tiêu điểm là đề
Đây là kiểu CTTT có phần thuyết làm cơ sở nhưng bị tỉnh lược, chỉ còn lại phần đề trùng với tiêu điểm thông tin, ví dụ:
25) a. (Ai nói với con thế? Chị Nghĩa à?)
b. Không! Cô Minh trong trại đấy (Phạm Hổ)
26) a. (Cái gì mà chạy bình bịch thế?)
b. Xe cậu phán. (Nam Cao)
27) a. (Bao giờ anh về lại Hà Nội?)
b. Tuần tới.
2.3.2. CTTT có tiêu điểm là thuyết
Khác với kiểu CTTT trên, ở kiểu này phần đề là cơ sở thông tin bị tỉnh lược, chỉ còn lại phần thuyết (28, 29b) hoặc bộ phận của phần thuyết (30b, 31b) trùng với tiêu điểm, ví dụ:
28) Đi mà làm ăn! Đừng lười thế. (Nguyễn Công Hoan)
29) a. (Xích nó nghiến rách áo hả?)
b. Nhảy qua hàng rào bùng nhùng. (Nguyễn Khải)
30) a. (Anh ta cưới vợ rồi à?). Lấy ai?
b. Cái Thửa, con nhà chú Thuận lùn ấy mà. (Nam Cao)
31) a. (Thật ư? Cô trông thấy bao giờ?)
b. Vừa lúc nãy. (Nam Cao)
2.3.3. CTTT có tiêu điểm là cấu trúc đề – thuyết
Các CTTT có tiêu điểm đề – thuyết có tiêu điểm trùng hoàn toàn với câu (cấu trúc đề- thuyết) không thể phân chiết ra được bất kỳ một bộ phận nào trong đó quan trọng hơn về mặt thông tin. Người nói tạo lập và người nghe tiếp nhận toàn bộ cấu trúc đề – thuyết như là một thông điệp mang thông tin mới hoàn chỉnh. Trong diễn ngôn hội thoại, các câu có CTTT với tiêu điểm là cấu trúc đề – thuyết thường xuất hiện như là câu trả lời cho các câu hỏi chung về sự kiện, ví dụ:
32) a. (Gì vậy? Có chuyện gì thế, anh Mạc?)
b. Tiểu đoàn//vừa cho biết có tiếng súng AK nổ ở dốc đá bạc. (Mai Ngữ)
Hoặc thông tin về một sự kiện được tiền giả định sai hoàn toàn trong tham thoại trước đó:
33) a. (Con làm vỡ ly rồi hả?)
b. Dạ không, quả bóng bay//nổ ạ.
Hoặc để giới thiệu một sự tình liên quan đến một thực thế mới được đưa vào diễn ngôn, và vì vậy đề thường không xác định:
34) a. (Việc chi đó mình? – Bà Khê hỏi)
b. Chẳng rõ nữa, có vị trưởng khối nào đó// mời ra bàn việc thầu ghế bố. (Mai Ngữ)
Hay để nhấn mạnh tính biểu cảm với một trật tự đảo đề – thuyết thành thuyết đề:
35) Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi. (Tố Hữu)
Trong ngôn ngữ đơn thoại, câu có tiêu điểm thông tin trùng với cấu trúc đề – thuyết khi thông tin mà nó biểu thị chưa được nói đến trong các câu đi trước, và vì vậy hoàn toàn mới với người nghe, ví dụ:
36) Pháp// chạy. Nhật// hàng. Vua Bảo đại//thoái vị (Hồ Chí Minh)
37) Thấy nó, bà bán hàng rau// đứng dậy, quẩy gánh lên vai đi chỗ khác. Bà hàng thịt// sờ lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu// nắn lại tiền. Bà hàng lê// bấm cô hàng bánh đúc. Chị bán bánh rán// đưa mắt cho bác bán khoai. (Nguyễn Công Hoan)
Trên đây, chúng tôi đã sơ bộ trình bày kết quả khảo sát các kiểu CTTT của câu đơn tiếng Việt trong mối quan hệ với CTCP là cấu trúc đề – thuyết. Kết quả cho thấy CTCP của câu đơn tiếng Việt được hiện thực hoá qua các phát ngôn bằng nhiều kiểu CTTT khác nhau, và hình thức cú pháp của câu đơn tiếng Việt bị chi phối mạnh mẽ bởi CTTT, đặc biệt là bởi vị trí của tiêu điểm thông tin. Tuy nhiên, để có thể thấy rõ hơn bức tranh phong phú về các biến thể cú pháp khác nhau về CTTT của câu tiếng Việt, cần thiết phải khảo sát tỷ mỉ hơn mối quan hệ giữa CTTT và CTCP của câu trong các loại hình diễn ngôn khác nhau, không chỉ ở ngôn ngữ hội thoại hay ngôn ngữ của các tác phẩm văn học mà còn ở các thể loại diễn ngôn khác (văn bản hành chính, văn bản khoa học,).
Câu chủ động
Câu chủ động là câu có chủ ngữ và vị ngữ mà trong đó chủ ngữ là người hay vật hay một hiện tượng làm chủ hành động.
Câu chủ động và câu bị động là hai hình thức câu chủ yếu của mọi ngôn ngữ trong văn nói cũng như văn viết.
Hoàn toàn ngược với câu bị động, câu chủ động có một chất giọng chủ động thường được sử dụng nhiều trong văn nói hay giao tiếp. Câu chủ động cũng xuất hiện trong các loại văn bản, tiểu thuyết, truyện ngắn, ký... nhưng sẽ không hay bằng câu bị động. Bạn cũng có thể sử dụng loại câu này tùy ý trong văn nói hay văn viết.
Câu bị động
Câu bị động là câu cũng có chủ ngữ và vị ngữ mà trong đó chủ ngữ nhận hay chịu ảnh hưởng của hành động.
Câu bị động là câu có một chất giọng thụ động được sử dụng trong văn viết nhiều hơn trong văn nói bình thường và được dùng để viết trong các loại văn bản nhiều hơn các loại câu khác. Câu bị động có mặt hầu hết trong các báo chí (tạp chí) hơn là trong các loại câu truyện như tiểu thuyết (truyện ngắn, một số loại ký...) nhưng hầu hết các nhà báo và nhà văn tiểu thuyết sử dụng những câu này rất hay và rất linh hoạt (dùng các phép ẩn dụ, biền ngẫu...). Tuy nhiên, một số loại câu bị động lại được dùng trong văn để viết các bài viết về khoa học và công nghệ. Những bài bào viết về thông tin khoa học thường có chứa nhiều thể loại câu bị động hơn các loại câu khác.
Bạn không nên sử dụng những câu bị động này trong lời ăn tiếng nói khi giao tiếp với người khác sẽ làm mất lòng người khác, trừ khi bạn có một lý đúng và chính đáng.
Câu có chứa động từ chủ động (active verb) là một vấn đề hay chủ đề (chủ ngữ) của động từ bị động (passive verb)(trong các ví dụ dưới đây). Do đó, động từ có thể không theo sau các đối tượng hay vấn đề (chủ ngữ) (nội động từ) có thể không được sử dụng trong câu bị động.
Đây là một trong số những nội động từ phổ biến nhất: xuất hiện, đến nơi, đến, khóc, chết, đi, xảy ra, xảy đến, giấc ngủ, lưu lại, đi bộ. Những động từ này có thể không được sử dụng trong câu bị động.
Câu bị động luôn luôn có chứa một hình thức của trợ động từ be (được - trong tiếng Anh). Các hình thức của động từ be trong cụm động từ bị động (passive verb phrase) tương ứng với hình thức của động từ chính (main verb) trong cụm động từ chủ động (active verb phrase)(là những từ được in đậm trong các ví dụ dưới đây).
Động từ chính trong cụm động từ vị ngữ ở thể bị động (passive predicate verb phrase) thì luôn ở hình thức quá khứ phân từ.
Một số ví dụ ở các câu chủ động và bị động:
Câu chủ động
Họ (đã) từng nói tiếng Anh.
Họ nói tiếng Anh.
Họ đang nói tiếng Anh.
Họ dự định nói tiếng Anh.
Họ sẽ nói được tiếng Anh.
→
→
→
→
→
→
Câu bị động
Tiếng Anh (đã) từng được họ nói.
Tiếng Anh được họ nói.
Tiếng Anh đang được họ nói.
Tiếng Anh dự định được họ nói.
Tiếng Anh sẽ được họ nói.
Bạn không nên sử dụng câu bị động trong văn nói trừ khi bạn có một lý do chính đáng và hợp lý. Câu bị động thường được sử dũng khi các đại lý (người thực hiện hành động; chủ ngữ của động từ chủ động) là rõ ràng, chưa biết, hoặc không cần thiết. Ví dụ:
Cam được trồng tại California.
Toyotas được sản xuất tại Nhật Bản.
Ví của cô ấy đã bị đánh cắp.
Câu bị động thường được sử dụng khi chủ ngữ được biết, nhưng người nói/người viết không muốn nói đến nó.
Cô ấy đã được khuyên một lời khuyên xấu.
Một lỗi sai lầm đã được thực hiện.
Câu bị động thường được sử dụng khi người nói/người viết muốn nhấn mạnh một kết quả: Hàng nghìn người đã bị giết bởi trận động đất.
Câu bị động thường được sử dụng khi người nói/người viết muốn giữ cùng một chủ ngữ cho hai hoặc nhiều động từ nhưng trường hợp này sẽ không thực hiện được nếu cả hai động từ cùng ở một thể (chủ động hay bị động).
Ví dụ, trong một cuộc trò chuyện về George, người nói sẽ sử dụng câu a chứ không phải là câu b (cả hai câu đều chính xác).
a. George đã có một cuộc phỏng vấn trước khi ông được thuê bởi một công ty phần mềm.
b. George đã có một cuộc phỏng vấn trước khi một công ty phần mềm đã thuê ông.
Hầu hết các câu thụ động không có chứa một đại lý (đại diện); tất cả các câu chủ động đều có chứa một đại lý (đại diện).
Một đại lý (đại diện) là một chủ ngữ của động từ chủ động. Trong các ví dụ ở câu trên, các đại lý là "họ" đều có mặt trong tất cả các câu chủ động, còn các câu thụ động thì không có chứa một đại lý.
Khi một câu có chứa một đại lý, nó nằm trong một cụm tính từ (prepositional phrase) sau động từ. Ví dụ:
Tiếng Anh được nói bởi họ.
Trong những câu sau đây, các danh từ "Những giáo viên" là các đại lý trong cả hai câu. "Những giáo viên" cũng là chủ ngữ của câu chủ động. Nhưng "kỳ thi" là chủ ngữ của câu bị động.
Chủ động: Những giáo viên chuẩn bị cho kỳ thi.
 Bị động: Kỳ thi được chuẩn bị bởi những giáo viên.

Tài liệu đính kèm:

  • docngu phap tieng viet.doc