Giáo án môn Ngữ văn khối 9 - Ôn thi vào lớp 10

Giáo án môn Ngữ văn khối 9 - Ôn thi vào lớp 10

Đề bài số 1: Cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh trước biến đổi của đất trời lúc sang thu.

 1. Mở bài: Mùa thu là nguồn cảm hứng của các thi nhân từ xưa đến nay, biết bao thi nhân đã gửi gắm lòng mình vào những bài thơ thu và đem đến cho người đọc những cảm xúc tinh tế. Mỗi nhà thơ có một cách nhìn, cách cảm nhận khác nhau tạo nên những ấn tượng rất riêng về mùa thu, Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ ấy. Với con mắt nghệ sĩ, tâm hồn nhạy cảm, ông đã đem đến cho người đọc một bức tranh sang thu đặc sắc. Bài thơ “Sang thu” được sáng tác năm 1977 in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố” . Đọc bài thơ, ta cảm nhận được bức tranh mùa thu qua những giây phút giao mùa cuối hạ sang thu qua cảm nhận tinh tế, hình ảnh thơ tiêu biểu, gợi cảm và các BPNT đặc sắc.

 2. Thân bài:

* Giới thiệu khái quát: Bài thơ gồm có 3 khổ, mỗi khổ có 4 dòng thơ ngũ ngôn. Với các hình ảnh tự nhiên giàu sức gợi, “Sang thu” là những cảm nhận tinh tế đến vô cùng của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa, từ đó bộc lộ một t/y thiên nhiên tha thiết.

* Phân tích:

 Luận điểm 1: Cảm nhận về những tín hiệu đầu tiên của mùa thu đến đột ngột, bất ngờ: “Bỗng nhận ra hương ổi – Phả vào trong gió se” . Đây là sự cảm nhận rất độc đáo, rất riêng của HT. Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác bắt đầu từ một mùi hương “hương ổi”. Hương ổi chín thơm lừng phả vào trong những cơn gió se se lạnh mà ông đột ngột nhận ra. Từ “Bỗng” trong câu thơ cho ta thấy một cảm giác bất ngờ, đột ngột đến độ ngạc nhiên. Động từ “phả” vừa gợi cảm giác bất chợt vừa gợi sự vận động nhẹ nhàng của làn gió. Cái mùi hương đặc trưng của mùa thu từ ổi thơm lừng không gian là hương vị của đồng quê mộc mạc, dân dã cứ vương vấn mãi. Nhà thơ còn cảm nhận được sương thu: “ Sương chùng chình qua ngõ”. Lần này là sự cảm nhận bằng thị giác, chùng chình là từ láy tượng hình cùng NT nhân hoá gợi ra sự lay động của lá cây và những hạt sương mai ướt mềm mại đang giăng giăng qua ngõ nhỏ. Mùa thu đã về có hương ổi, có gió se, có sương thu chùng chình. Vậy mà nhà thơ lại hỏi: “Hình như thu đã về”. Mùa thu được cảm nhận bằng lý trí. “Hình như” là một chút nghi hoặc, bâng khuâng, bối rối. Mùa thu đến từ bao giờ? Từ hương ổi? Từ gió? Từ sương? Một cảm xúc ngỡ ngàng, bất chợt trong cảm nhận. Thu đã về trên quê hương, đó là cảm xúc trong thời điểm giao mùa. Chỉ có những con người thực sự yêu mùa thu, gắn bó với quê hương đất nước thì mới có những cảm xúc tinh tế đến vậy.

 

doc 22 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 542Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn khối 9 - Ôn thi vào lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Ôn thi môn ngữ văn vào lớp 10
Đề bài số 1: Cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh trước biến đổi của đất trời lúc sang thu. 
 1. Mở bài: Mùa thu là nguồn cảm hứng của các thi nhân từ xưa đến nay, biết bao thi nhân đã gửi gắm lòng mình vào những bài thơ thu và đem đến cho người đọc những cảm xúc tinh tế. Mỗi nhà thơ có một cách nhìn, cách cảm nhận khác nhau tạo nên những ấn tượng rất riêng về mùa thu, Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ ấy. Với con mắt nghệ sĩ, tâm hồn nhạy cảm, ông đã đem đến cho người đọc một bức tranh sang thu đặc sắc. Bài thơ “Sang thu” được sáng tác năm 1977 in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố” . Đọc bài thơ, ta cảm nhận được bức tranh mùa thu qua những giây phút giao mùa cuối hạ sang thu qua cảm nhận tinh tế, hình ảnh thơ tiêu biểu, gợi cảm và các BPNT đặc sắc.
 2. Thân bài:
* Giới thiệu khái quát: Bài thơ gồm có 3 khổ, mỗi khổ có 4 dòng thơ ngũ ngôn. Với các hình ảnh tự nhiên giàu sức gợi, “Sang thu” là những cảm nhận tinh tế đến vô cùng của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa, từ đó bộc lộ một t/y thiên nhiên tha thiết.
* Phân tích: 
 Luận điểm 1: Cảm nhận về những tín hiệu đầu tiên của mùa thu đến đột ngột, bất ngờ: “Bỗng nhận ra hương ổi – Phả vào trong gió se” . Đây là sự cảm nhận rất độc đáo, rất riêng của HT. Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác bắt đầu từ một mùi hương “hương ổi”. Hương ổi chín thơm lừng phả vào trong những cơn gió se se lạnh mà ông đột ngột nhận ra. Từ “Bỗng” trong câu thơ cho ta thấy một cảm giác bất ngờ, đột ngột đến độ ngạc nhiên. Động từ “phả” vừa gợi cảm giác bất chợt vừa gợi sự vận động nhẹ nhàng của làn gió. Cái mùi hương đặc trưng của mùa thu từ ổi thơm lừng không gian là hương vị của đồng quê mộc mạc, dân dã cứ vương vấn mãi. Nhà thơ còn cảm nhận được sương thu: “ Sương chùng chình qua ngõ”. Lần này là sự cảm nhận bằng thị giác, chùng chình là từ láy tượng hình cùng NT nhân hoá gợi ra sự lay động của lá cây và những hạt sương mai ướt mềm mại đang giăng giăng qua ngõ nhỏ. Mùa thu đã về có hương ổi, có gió se, có sương thu chùng chình. Vậy mà nhà thơ lại hỏi: “Hình như thu đã về”. Mùa thu được cảm nhận bằng lý trí. “Hình như” là một chút nghi hoặc, bâng khuâng, bối rối. Mùa thu đến từ bao giờ? Từ hương ổi? Từ gió? Từ sương? Một cảm xúc ngỡ ngàng, bất chợt trong cảm nhận. Thu đã về trên quê hương, đó là cảm xúc trong thời điểm giao mùa. Chỉ có những con người thực sự yêu mùa thu, gắn bó với quê hương đất nước thì mới có những cảm xúc tinh tế đến vậy.
 Luận điểm 2: Mùa thu được cảm nhận bằng một không gian rộng lớn hơn, nhiều tầng bậc và rõ rệt hơn. Đó là từ các cảnh vật lúc sang thu. Bắt đầu từ dòng sông và những cánh chim trời: “ Sông được lúc dềnh dàng
 Chim bắt đầu vội vã”.
Con sông quê hương cũng như đang dềnh dàng chờ nước mùa thu. Từ láy “dềnh dàng” và phép nhân hoá đã gợi tả dòng sông mùa thu êm đềm thư thái. Con sông quê không còn nước chảy cuồn cuộn đỏ ngầu phù sa mà trở nên cạn hơn, trong vắt êm đềm trôi. Đối lập với con sông quê là những cánh chim trời đang vội vã. Mùa thu với những ngọn gió heo may, se lạnh làm chúng phải bay về phương Nam tránh rét. Phép nhân hoá và từ láy tượng hình kết hợp cụm từ “ Bắt đầu vội vã” là những cảm nhận độc đáo chỉ có thể thấy được ở một tâm hồn đa cảm, tinh tế của người nghệ sĩ. Tất cả vạn vật như đang hối hả, xôn xao khi mùa thu về.Thu đã về trên bờ đê, ngõ xóm, trên những dòng sông và cả những cánh chim trời đang nhuốm sắc thu. Độc đáo nhất là bức tranh thu được cảm nhận từ những áng mây: “Có đám mây mùa hạ
 Vắt nửa mình sang thu”. 
Hữu Thỉnh không tả “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” như thơ của Nguyễn Khuyến mà điểm vào bức tranh thu một chút mây còn vương lại của mùa hạ. Đám mây mùa hạ đang vắt nửa mình sang thu. Đây là một lối diễn đạt độc đáo. Đám mây mang trên mình cả 2 mùa. Một nửa là vẻ đẹp của mùa hạ còn rơi rớt lại, một nửa là vẻ đẹp của mùa thu. Đó là cái đẹp rất riêng của phút giao mùa. Đám mây vắt nửa mình là hình ảnh nhân hoá. Đám mây ấy dài, mỏng, thướt tha, duyên dáng như một dải lụa nằm vắt ngang in trên nền trời, rồi để đến một lúc nào đó trở thành “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.
Hai khổ thơ trên là cảm nhân tinh tế của nhà thơ trong thời khắc giao mùa. Nhà thơ đã vẽ nên 1 bức tranh sang thu nông ấm. Đó là cảnh sang thu đẹp đến vô cùng, nhẹ nhàng tươi tắn đến lạ kỳ. Các phép nhân hoá, từ láy tượng hình đã đưa ta về với 1 miền quê dân dã mà ấm áp tình người.
 Luận điểm 3: Mùa thu được cảm nhận bằng những suy ngẫm và trải nghiệm.
Nếu như ở 2 khổ thơ trên là sự cảm nhận mùa thu 1 cách trực tiếp thì ở khổ cuối lại là sự cảm nhận mùa thu bằng lý trí, bằng những suy ngẫm sâu sa:
 “Vẫn còn bao nhiêu nắng
 Đã vơi dần cơn mưa
 Sấm cũng bớt bất ngờ
 Trên hàng cây đứng tuổi”.
Vẫn là những hiện tượng của thời tiết: Mưa, nắng, sấm, chớp, dông, bão của mùa hạ nhưng mức độ đã khác đi nhiều. Nắng vẫn còn nhưng không còn gay gắt, chói chang như đổ lửa trên các ngõ xóm, con đường. Mưa giảm dần chứ không còn ào ạt, xối xả và bớt chợt như những cơn mưa dông, mưa rào của mùa hạ nữa. Sấm cũng đã thưa dần và nhỏ đi chứ không đủ sức lay động những hàng cây sống lâu năm đã già dặn trải qua bao mùa dông bão. Đó là những hình ảnh tả thực về hiện tượng của TN, thời tiết, khí hậu lúc giao mùa hạ, thu. Ngoài hình ảnh tả thực, hai câu thơ cuối còn mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Sấm là hình ảnh tượng trưng cho những bất thường của ngoại cảnh cuộc đời. Còn hàng cây đứng tuổi là hình ảnh tượng trưng cho những con người từng trải, có nhiều kinh nghiệm và vốn sống. Họ sẽ trở nên bình tĩnh, tự tin, vững vàng, chín chắn hơn trước những tác động bất thường của cuộc đời. Bằng hình ảnh tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng, nhà thơ muốn gửi gắm những suy ngẫm, trải nghiệm của mình về con người và cuộc đời.
3. Kết bài: 
“Sang thu” của Hữu Thỉnh là 1 bài thơ đôc đáo. Bài thơ gây hấp dẫn cho chúng ta bằng những hình ảnh thơ rất tự nhiên, giàu sức gợi. Các phép NT nhân hoá, ẩn dụ, tương phản và các từ láy được vận dụng linh hoạt. Bằng những cảm nhận tinh tế, Hữu Thỉnh đã đưa ta đến một bức tranh thu vừa đẹp vừa có hồn, vừa gần gũi mà ấm áp, thân thương. Đọc “Sang thu” gợi lên trong tâm hồn ta một nét đẹp của quê hương bình dị và ta càng hiểu thêm 1 tâm hồn , 1 cái nhìn tinh tế, 1 t/y thiên nhiên tha thiết của nhà thơ trước thời khắc giao mùa./.
Đề bài số 2: Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương.
 1. Mở bài: Viễn Phương là một nhà thơ chiến sĩ ở miền Nam. Ông đã từng làm thơ chúc thọ Bác trong nhà giam của Mỹ nguỵ, từng làm thơ khóc Bác trên chiến trường đánh Mỹ. Đến ngày hoà bình thống nhất đất nước, ông đã dồn hết t/c thành kính với Bác vào bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ được sáng tác năm 1976 trong dịp nhà thơ được ra thăm lăng Bác. Bài thơ được in trong tập thơ “ Như mây mùa xuân”. Cả bài thơ là niềm thương nhớ, kính yêu vô hạn của nhà thơ với Bác và nguyện ước tha thiết muốn mãi mãi được ở bên Người.
 2. Thân bài:
* Khái quát: Mạch cảm xúc của bài thơ được diễn tả theo trình tự thời gian của một chuyến viếng lăng. Với 4 khổ thơ tự do 8 chữ, bài thơ đã diễn tả cảm xúc chân thành, tha thiết, nghẹn ngào của nhà thơ trước sự ra đi mãi mãi của Người.
* Phân tích:
 Luận điểm 1: Cảm xúc của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác.
Mở đầu bài thơ là lời xưng hô: “ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Đây là cách xưng hô mang đậm chất Nam Bộ. Bao nỗi nhớ, niềm thương bật lên thành tiếng gọi cha trào dâng bao cảm xúc, tình cha con cứ trào dâng mãi. Nhà thơ không dùng từ “viếng” như ở đầu đề bài thơ mà chuyển thành từ “thăm” để làm giảm đi sự đau đớn mà sao vẫn không dấu được nỗi bùi ngùi của cảnh tử biệt sinh ly.
Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy hình ảnh hàng tre trong sương biết bao thân thuộc:
 “Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
 Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Hàng tre ẩn hiện trong làn khói sương của quảng trường Ba Đình. Đó là màu xanh thân thuộc của làng quê Việt luôn gắn bó với tâm hồn Bác, tâm hồn Người cũng luôn gắn bó với quê hương xứ sở. Từ hình ảnh tả thực của cây tre đã được nâng lên thành hình ảnh ẩn dụ “xanh xanh VN”. Cây tre bình thường, dung dị trở thành biểu tượng cho phẩm chất cao quí của con người VN: Mộc mạc, dẻo dai, kiên cường, bất khuất. Thì ra ở bên Bác vẫn có cả dân tộc VN như đang ở quanh Người. Cùng với hình ảnh ẩn dụ là từ cảm “Ôi” được biểu cảm theo lối trực tiếp và điệp từ “xanh” đã thể hiện sự xúc động của nhà thơ khi liên tưởng và tự hào về sức mạnh của dân tộc VN dù trải qua bao “bão táp phong ba” vẫn kiên cường, bất khuất trong suốt bốn ngàn năm lịch sử. Nếu ở khổ 1 cảnh vật còn đang trong sương phủ thì lúc này mặt trời đã lên cao. Nhà thơ bùi ngùi, xúc động:
 “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
 Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Nhà thơ đã xây dựng 2 hình ảnh mặt trời có kết cấu song song. Mặt trời trên lăng là mặt trời của thiên thể ngày ngày đem đến ánh sáng cho muôn loài trên trái đất. Đây là hình ảnh tả thực. Nhưng nhà thơ còn cảm nhận được một mặt trời rực rỡ hơn. Đó là “mặt trời trong lăng”. Bằng một hình ảnh ẩn dụ, so sánh độc đáo nhà thơ muốn ca ngợi công lao to lớn trời biển của Bác như vầng thái dương chiếu sáng sưởi ấm trái tim chúng ta. Đặc biệt là ở chỗ nhà thơ ví Bác với thiên thể có t/c trường tồn để thể hiện sự ngưỡng mộ,vĩ đại với Người.
Hoà vào dòng người vào lăng viếng Bác, nhà thơ đã có sự liên tưởng: 
 “ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
 Kết tràng hoa dâng bẩy mươi chín mùa xuân”.
Hai câu thơ với 2 hình ảnh ẩn dụ và cũng là hình ảnh tả thực: Nhìn dòng người vào lăng viếng Bác nhà thơ liên tưởng tới những tràng hoa kết thành vòng, chuỗi để dâng lên một cuộc đời 79 mùa xuân. Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp vì là cách nói rất thơ: 79 mùa xuân ấy đã đem lại những mùa xuân cho dân tộc, đất nước VN, đồng thời thể hiện lòng biết ơn ,sự gắn bó của nhân dân đối với Bác.
Bốn câu thơ với 2 hình ảnh tả thực và 2 hình ảnh ẩn dụ được kết cấu song song, điệp từ “ngày” được láy lại tạo nên cảm xúc về một cõi trường sinh bất tử, thể hiện lòng thương tiếc vô hạn, sự biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với Bác.
 Luận điểm 2: Cảm xúc của nhà thơ khi ở trong lăng Bác.
Vào lăng viếng Bác, nhà thơ nâng niu, trân trọng giấc ngủ của Người bởi “Trọn cuộc đời Bác có ngủ yên đâu”. Hình ảnh Bác yên nghỉ trong lăng được nhà thơ cảm nhận và diễn tả thật giản dị:
 “Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
 Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”. 
Bác đã nhẹ nhàng đi vào cõi vĩnh hằng vô tận trong một giấc ngủ êm đềm, yên bình thanh thản. Đó là giấc ngủ của một con người mà trọn cuộc đời đấu tranh cho độc lập tự do. Bác như vừa chợp mắt trong ánh sáng dịu dàng của vần trăng ôm ấp, che chở. Đó là vẻ đẹp nên thơ, Người đã hoà nhập vào TN vũ trụ bởi sinh thời Người rất yêu trăng, trăng là người bạn tâm giao tri kỷ của Người. Nếu ở trên kia ta thấy mặt trời thì nay trong lăng ta gặp lại ánh trăng. Trăng từ thơ Bác đã theo Người vào giấc ngủ hiền hoà. Tâm  ... c: Cách dẫn dắt tự nhiên khéo léo, kịch tính phát triển cao, cách thắt nút cà cởi nút hết sức tức tự nhiên, cách xây dựng tình huống bất ngờ. Đặc sắc nhất là NT khắc hoạ tâm lí nv phù hợp. Đó là tâm lí của người nông dân qua nv ông Hai. Truyện ca ngợi t/y làng hoà quyện vào tình yêu nước, yêu k/c. Đó là t/y Tổ Quốc, sự gắn bó chung thuỷ với k/c của người nông dân trong cuộc k/c chống Pháp. Đọc truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, em thêm yêu mến cảm phục người nông dân. Những phẩm chất của nv ông Hai đã bồi dưỡng cho em t/y Tổ Quốc, sự gắn bó tha thiết với nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
 ................................................................................
Đề bài số 7: Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận.
1. Mở bài: 
* Cách 1: Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới”. Trước CM 1945 với các tập thơ nổi tiếng như “ Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca” là sự cảm nhận cô đơn nhỏ bé, bơ vơ qua hình ảnh “cành củi khô” hay những cánh bèo dập dếnh trôi nổi. Nhưng sau CM tháng 8 ông có một sự đổi thay rất kì diệu. Ông mau chóng hoà nhập vào cuộc k/c vĩ đại của dân tộc. Ánh sáng cuộc sống mới đem lại cho nhà thơ một cái nhìn tươi trẻ, ấm áp, tràn đầy niêm tin và hạnh phúc. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” là một minh chứng được sáng tác năm 1958 nhân dịp đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh, phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng cnxh. Cả bài thơ là một bức tranh TN tráng lệ ca ngợi vẻ đẹp của biển quê hương và là bài ca hào hùng về những con người lao động phấn khởi, hăng say của cuộc đời làm chủ.
* Cách 2: Trước CM tháng 8, thơ Huy Cận thường mang nỗi sầu thiên cố “buồn não nhưng lòng chẳng thấy nguôi” thì sau CM thơ ông có một bước chuyển biến mới từ cảm hứng, cách nhìn. Đọc thơ ông ta thấy tràn ngập một niềm vui của những con người làm chủ cuộc sống mới. “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ như thế. Bài thơ được sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai – Quảng Ninh, in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của vùng biển quê hương và phản ánh khí thế lao động hăng say, sôi nổi của người ngư dân trong buổi đầu xây dựng cuộc sống mới.
2. Thân bài:
* Khái quát: Cảm hứng bao trùm cả bài thơ là cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian từ hoàng hôn đến đêm trăng tới lúc bình minh trong cái nhìn lạc quan yêu đời của những con người thực sự làm chủ cuộc sống mới. Với bút pháp lãng mạn bay bổng, tác giả đã vẽ nên một bức tranh TN tươi tắn, tráng lệ và ca ngợi khí thế hào hùng của ngư dân trong buổi đầu làm chủ cuộc sống mới.
Luận điểm 1: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
+ Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh hoàng hôn. Nếu như trong thơ cổ hoàng hôn là những ngày tàn gợi cảm giác buồn, lạnh lẽo thì ở đây hoàng hôn lại bắt đầu bằng hình ảnh mặt trời:
 Mặt trời xuống biển như hòn lửa
 Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.
Cách nhìn của nhà thơ thật độc đáo, càng độc đáo hơn khi liên tưởng so sánh mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang từ từ lặn xuống biển. Phép so sánh ấy cho ta thấy hoàng hôn ở đây không hề ảm đạm mà vô cùng ấm áp, tràn đầy sức sống.
Hoàng hôn buông xuống nhường chỗ cho màn đêm. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc bóng tối mịt mùng. Phép nhân hoá “sóng cài then, đêm sập cửa” được vận dụng độc đáo. Những con sóng chạy qua chạy lại giống như chiếc then cài vào màn đêm. Cảm hứng vũ trụ được kết hợp với các ĐT “cài, sập”diễn tả cảnh biển đêm âm u, huyền bí như một sự thr thách con người. Hai câu thơ miêu tả cảnh hoàng hôn thật kì vĩ, tráng lệ mà tĩnh lăng.
+ Với TN một ngày đã khép lại, mọi vật đi vào trạng thái nghỉ ngơi yên tĩnh, còn với con người lại là sự khởi đầu của công cuộc lao động:
 “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
 Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Từ lại” cho ta thấy đây là công việc thường ngày của ngư dân, khảng định nhịp điệu lao động đã ổn định đi vào nề nếp. Khúc hát lên đường vang động, tràn ngập niềm vui phơi phới. Gió thổi mạnh, cánh buồm no gió. Câu thơ sử dụng NT ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Từ cảm nhận tiếng hát bằng thính giác đưa ta sang cảm nhận bằng thị giác về câu hát căng buồm”. Câu thơ gợi nên khung cảnh hùng vĩ. Tiếng hát, gió khơi, buồm” là 3 chi tiết mang t/c tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say, niềm tin yêu cuộc sống của những con người làm chủ.
Hai câu thơ sau đối lập hai câu thơ đầu. Vũ trụ nghỉ ngơi – con người hoạt động; TN tĩnh lặng – con người náo nức, khẩn trương; Cảnh đoàn thuyền ra khơi trong ngày tàn – gợi ra sự ấm áp.
+ Đoàn thuyền ra khơi trong tiếng hát lạc quan phơi phới:
 “ Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
 Cá thu biển Đông như đoàn thoi
 Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
 Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”.
Âm thanh của những câu hát vang lên làm nổi bật tâm hồn hiền hậu người dân chài. Đó là tiếng hát cầu mong sóng yên biển lặng. Niềm mong ước ấy phản ánh niềm lạc quan của ngư dân đã từng trải qua nhiều nắng gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào cùng bút pháp LM bay bổng, kết hợp với các từ cá bạc, đoàn thoi, dệt biển”là những h/a so sánh, ẩn dụ, nhân hoá đem đến nhiều liên tưởng thú vị về vẻ đẹp của lao động.
Luận điểm 2: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển đêm tuyệt đẹp,
+ Nếu ra khơi trong khung cảnh TN tuyệt đẹp thì cảnh đánh cá đêm trăng cũng đẹp biết chừng nào:
 Thuyền ta lái gió với buồm trăng
 Lướt giữa mây cao với biển bằng
 Ra đậu dặm xa dò bụng biển 
 Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
 Với bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã tả cảnh đánh cá trên biển một đêm trăng bằng bao hình ảnh nhân hoá tuyệt vời. Đoàn thuyền ra khơi có gió làm bánh lái, có ánh trăng làm buồm. Biển khơi như một trận địa khổng lồ “dàn đan thế trận” mà ngư dân là chiến sĩ, con thuyền và mái chèo là vũ khí. Chữ “lướt” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường. Âm điệu khổ thơ hào hùng, khoẻ khoắn diễn tả sức mạnh con người lao động trên con đường chinh phục và khám phá thiên nhiên. 
+ Khổ thơ tiếp theo, nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp của biển quê hương:
 “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
 Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
 Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”.
Nhà thơ vận dụng sáng tạo câu thành ngữ “Chim thu nhụ đé”để miêu tả các loài cá quý hiếm, ngon nổi tiếng. Phép liệt kê, NT so sánh, ẩn dụ “như đoàn thoi” và NT phối sắc tuyệt đẹp. Bầy cá như những nàng tiên vũ hội rực rỡ. Cá song là một nét vẽ tài hoa: Vẩy cá đen hồng lấp lánh trên nước biển sóng sánh chan hoà ánh trăng. Hình ảnh “Cái đuôi quẫy trăng vàng choé” là một hình ảnh hùng vĩ, lộng lẫy của biển đêm: Những chiếc đuôi cá vẫy dưới làn nước lấp lánh ánh trăng, ánh sáng chói loá cả không gian. Câu thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ.
Biển đêm không chỉ có tiếng sóng rì rầm, nhà thơ lại cảm nhận một âm thanh khác: “Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”.
Tác giả sử dụng NT nhân hoá để cảm nhận tiếng thở của biển, của TN, của sự sống mơ mộng lãng mạn. Đây là âm thanh của thuỷ triều và gió tạo thành. ánh sao như lung linh trên mặt nước, biển tĩnh lặng với những gợn sóng phập phồng trong lồng ngực. Câu thơ huyền ảo như đang đưa người đọc vào cõi mộng. Hẳn phải có 1 t/y biển sâu nặng mới viết được những vần thơ tuyệt bút đến thế. 
+ Trong cảm xúc vui sướng nhìn đàn cá “dệt lưới”, người dân chài cất cao tiếng hát ngọt ngào:
 “ Ta hát bài ca gọi cá vào
 Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
 Biển cho ta cá như lòng mẹ
 Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.
Lần thứ hai tiếng hát vang xa trên biển. Tiếng hát, tiếng gõ thuyền đuổi cá hoà vào với tiếng sóng biển lấp lánh ánh trăng vàng tan ra vỗ vào mạn thuyền. Biển hào phóng, bao dung, chở che như lòng mẹ. Biển cho cá, tôm và biết bao hải sản quý hiếm, nuôi sống người dân chài từ bao đời nay. Cách so sánh độc đáo ấy nói lên niềm tự hào, biết ơn hoà quyện trong tiếng hát ngợi ca ấm áp, chan chứa nghĩa tình.
+ Một đêm trôi qua nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say:
 Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
 Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
 Vẩy bạc, đuôi vàng loé rạng đông
 Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.
ánh sao đã thưa và mờ dần nhưng ngư dân vẫn hăng say kéo lưới, những cơ thể rắn chắc, những cánh tay khoẻ mạnh đang “ kéo xoăn tay”. Đây là hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng, khoẻ và đẹp. “Chùm cá nặng” là hình ảnh ẩn dụ đầy độc đáo, gợi tả được mùa cá. Những con cá mắc vào lưới được so sánh như những chùm quả lủng lẳng thật thích mắt. Khoang thuyền đầy ắp màu vàng của đuôi cá “loé rạng đông”. Một lần nữa ta thấy NT miêu tả màu sắc của nhà thơ thật điêu luyện. Màu bạc” của vẩy cá, màu vàng của của đuôi cá lấp lánh dưới ánh rạng đông. 
Luận điểm 3: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong ánh bình minh rực rỡ.
+ Nếu đoàn thuyền thuyền ra khơi trong cảnh hoàng hôn ấm áp thì nay đoàn thuyền trở về trong buổi sáng bình minh rực rỡ. Niềm vui phơi phới của người dân chài được nhân lên gấp bội. Lần thứ 3, tiếng hát của họ vang lên:
 Câu hát căng buồm với gió khơi
 Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
 Mặt trời đội biển nhô màu mới
 Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Vẫn là khúc tráng ca hăng say lao động tạo cảm giác tuần hoàn, đó là tiếng hát thắng lợi hân hoan. Cảnh rạng đông nhô dần lên, ánh sáng chan hoà một màu rực rỡ bao trùm biển khơi. Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” là 1 h/a nhân hoá tuyệt đẹp tạo ra ấn tượng phi thường, lãng mạn bay bổng: Đoàn thuyền phóng như bay về bến như như muốn giành lấy TG, chạy đua với TG trở về cho kịp trời sáng. Con người trong tư thế chủ động và chiến thắng bởi trong cuộc chạy đua này, con người đã về đích trước. Nếu như ở khổ đầu, mặt trời xuống biển để thử thách con người thì ở giờ đây lại nhô lên để chứng kiến thành quả lao động của họ sau một đêm miệt mài. Câu thơ :Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” là h/a hoán dụ, ẩn dụ đầy sáng tạo. Mắt cá ánh lên phô ra vẻ đẹp rực rỡ dưới ánh bình minh gửi gắm mơ ước về cuộc sống ấm no hạnh phúc của người ngư dân vùng biển.
Cả bài thơ là một bức tranh lung linh mang âm hưởng của khúc tráng ca lao động. Đặc biệt câu hát đã trở thành âm hưởng chủ đạo của toàn bài. Câu hát đó thổi vào bài thơ một ngọn gió tin yêu cuộc sống với một chất men say lãng mạn – Một khúc ca phơi phới, lạc quan yêu đời.
3. Kết bài:
Bài thơ tiêu biểu cho phong cách Huy Cận sau CM T8. Với âm điệu ngọt ngào, bút pháp lãng mạn bay bổng, phép liên tưởng kì thú, cách gieo vần linh hoạt, âm điệu khoẻ khoắn; NT so sánh, ẩn dụ, nhân hoá được kết hợp tài hoa. Bài thơ là khúc ca của người lao động trong khung cảnh TN rộng lớn, kì vĩ, rộng lớn và tráng lệ. Đó là vẻ đẹp của con người làm chủ cuộc đời với những phẩm chất đáng quí, đáng trân trọng: Cần cù, sáng tạo, dũng cảm, chủ động và tinh thần lạc qua yêu đời. Đọc bài thơ, ta càng thêm yêu cuộc sống mới, yêu thêm vẻ đẹp TN của quê hương, đất nước mình. Em hứa sẽ cố gắng học tập và tu dưỡng để sau này góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp./.

Tài liệu đính kèm:

  • docon thi vao 10(3).doc