Giáo án môn Ngữ văn khối lớp 9 - Luyện tập viết đoạn văn

Giáo án môn Ngữ văn khối lớp 9 - Luyện tập viết đoạn văn

LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN

HƯỚNG DẪN CHUNG

I. Thế nào là đoạn văn?

Khái niệm đoạn văn ở trường phổ thông hiện nay được hiểu theo nhiều cách khác nhau:

- Cách hiểu thứ nhất (đoạn ý): Đoạn văn được dùng với ý nghĩa để chỉ sự phân đoạn nội dung, phân đoạn ý của văn bản. Một văn bản bao gồm nhiều đoạn văn: Đoạn mở đầu văn bản, những đoạn khai triển văn bản, đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn phải có sự hoàn chỉnh nhất định nào đó về mặt ý, về mặt nội dung. Nhưng thế nào là một nội dung, một ý hoàn chỉnh thì không có tiêu chí để xác định rõ ràng. Một văn bản, tuỳ theo người đọc cảm nhận mà phân chia ra thành các đoạn, sự phân chia có thể không thống nhất giữa những người đọc: có người chia theo ý lớn, có người chia theo ý nhỏ. Ý lớn là đoạn bài có hai hoặc ba ý nhỏ được khai triển từ ý lớn, bao gồm hai hoặc ba đoạn văn ngắn, mỗi đoạn ngắn đó là một ý nhỏ, các đoạn này hợp ý với nhau thành một ý lớn; ý nhỏ là ý được khai triển từ ý lớn, về mặt nội dung chỉ triển khai theo một phương diện, một hướng cụ thể, mỗi ý nhỏ là một đoạn.

 Cách hiểu này khiến cho cách phân đoạn thiếu tính khách quan. Với cách hiểu này, diện mạo đoạn văn không được xác định ( đoạn văn bắt đầu từ đâu, như thế nào, các câu văn trong đoạn có mối liên kết với nhau như thế nào, ) cho nên việc xây dựng đoạn văn trở nên khó khăn, phức tạp, khó rèn luyện các thao tác để trở thành kĩ năng kĩ xảo.

- Cách hiểu thứ hai (đoạn lời): Đoạn văn được hiểu là sự phân chia văn bản thành những phần nhỏ, hoàn toàn dựa vào dấu hiệu hình thức: một đoạn văn bao gồm những câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng.

 Cách hiểu này không tính tới tiêu chí nội dung, cơ sở ngữ nghĩa của đoạn văn. Với cách hiểu này, việc rèn luyện xây dựng đoạn văn càng trở nên mơ hồ, khó xác định vì đoạn văn không được xây dựng trên một cơ sở chung nào vì hình thức bao giờ cũng phải đi đôi với nội dung, bao chứa một nội dung nhất định và phù hợp với nội dung mà nó bao chứa.

- Cách hiểu thứ ba (đoạn văn xét thao cả hai tiêu chí về ý và về lời): Đoạn văn vừa là kết quả của sự phân đoạn văn bản về nội dung ( dựa trên cơ sở logic ngữ nghĩa) vừa là kết quả của sự phân đoạn về hình thức ( dựa trên dấu hiệu hình thức thể hiện văn bản).

 Về mặt nội dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ dàng. Mỗi đoạn văn trong văn bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản ( các đoạn này triển khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác nhau), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định.

 Về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở những điểm sau: mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng, có liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép liên kết; mỗi đoạn văn khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và viết lùi vào so với các dòng chữ khác trong đoạn.

 Đây là cách hiểu hợp lí, thoả đáng hơn cả giúp người đọc nhận diện đoạn văn trong văn bản một cách nhanh chóng, thuận lợi đồng thời giúp người viết tạo lập văn bản bằng cách xây dựng từng đoạn văn được rõ ràng, rành mạch.

 

doc 46 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 662Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn khối lớp 9 - Luyện tập viết đoạn văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN
HƯỚNG DẪN CHUNG
I. Thế nào là đoạn văn?
Khái niệm đoạn văn ở trường phổ thông hiện nay được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
- Cách hiểu thứ nhất (đoạn ý): Đoạn văn được dùng với ý nghĩa để chỉ sự phân đoạn nội dung, phân đoạn ý của văn bản. Một văn bản bao gồm nhiều đoạn văn: Đoạn mở đầu văn bản, những đoạn khai triển văn bản, đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn phải có sự hoàn chỉnh nhất định nào đó về mặt ý, về mặt nội dung. Nhưng thế nào là một nội dung, một ý hoàn chỉnh thì không có tiêu chí để xác định rõ ràng. Một văn bản, tuỳ theo người đọc cảm nhận mà phân chia ra thành các đoạn, sự phân chia có thể không thống nhất giữa những người đọc: có người chia theo ý lớn, có người chia theo ý nhỏ. Ý lớn là đoạn bài có hai hoặc ba ý nhỏ được khai triển từ ý lớn, bao gồm hai hoặc ba đoạn văn ngắn, mỗi đoạn ngắn đó là một ý nhỏ, các đoạn này hợp ý với nhau thành một ý lớn; ý nhỏ là ý được khai triển từ ý lớn, về mặt nội dung chỉ triển khai theo một phương diện, một hướng cụ thể, mỗi ý nhỏ là một đoạn.
	Cách hiểu này khiến cho cách phân đoạn thiếu tính khách quan. Với cách hiểu này, diện mạo đoạn văn không được xác định ( đoạn văn bắt đầu từ đâu, như thế nào, các câu văn trong đoạn có mối liên kết với nhau như thế nào,) cho nên việc xây dựng đoạn văn trở nên khó khăn, phức tạp, khó rèn luyện các thao tác để trở thành kĩ năng kĩ xảo. 
- Cách hiểu thứ hai (đoạn lời): Đoạn văn được hiểu là sự phân chia văn bản thành những phần nhỏ, hoàn toàn dựa vào dấu hiệu hình thức: một đoạn văn bao gồm những câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng.
	Cách hiểu này không tính tới tiêu chí nội dung, cơ sở ngữ nghĩa của đoạn văn. Với cách hiểu này, việc rèn luyện xây dựng đoạn văn càng trở nên mơ hồ, khó xác định vì đoạn văn không được xây dựng trên một cơ sở chung nào vì hình thức bao giờ cũng phải đi đôi với nội dung, bao chứa một nội dung nhất định và phù hợp với nội dung mà nó bao chứa.
- Cách hiểu thứ ba (đoạn văn xét thao cả hai tiêu chí về ý và về lời): Đoạn văn vừa là kết quả của sự phân đoạn văn bản về nội dung ( dựa trên cơ sở logic ngữ nghĩa) vừa là kết quả của sự phân đoạn về hình thức ( dựa trên dấu hiệu hình thức thể hiện văn bản).
 Về mặt nội dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ dàng. Mỗi đoạn văn trong văn bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản ( các đoạn này triển khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác nhau), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định.
	Về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở những điểm sau: mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng, có liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép liên kết; mỗi đoạn văn khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và viết lùi vào so với các dòng chữ khác trong đoạn.
	Đây là cách hiểu hợp lí, thoả đáng hơn cả giúp người đọc nhận diện đoạn văn trong văn bản một cách nhanh chóng, thuận lợi đồng thời giúp người viết tạo lập văn bản bằng cách xây dựng từng đoạn văn được rõ ràng, rành mạch.
	Ví dụ về đoạn văn:
	“ Vì ông lão yêu làng tha thiết nên vô cùng căm uất khi nghe tin dân làng theo giặc(1). Hai tình cảm tưởng chừng mâu thuẫn ấy đã dẫn đến một sự xung đột nội tâm dữ dội( 2). Ông Hai dứt khoát lựa chọn theo cách của ông: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù( 3). Đây là một nét mới trong tình cảm của người nông dân thời kì đánh Pháp(4). Tình cảm yêu nước rộng lớn hơn đã bao trùm lên tình cảm đối với làng quê(5). Dù đã xác định như thế, nhưng ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình yêu đối với quê hương; vì thế mà ông xót xa cay đắng”(6).
	Về nội dung:
- Chủ đề của đoạn văn trên là: tâm trạng mâu thuẫn của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc. Chủ đề này tập trung khái quát ở câu1,2.
- Đoạn văn trên có ba phần:
+ Câu 1,2 là phần mở đoạn. Phần này chứa đựng ý khái quát của cả đoạn văn, gọi là câu chủ đề. Câu chủ đề có thể là một hoặc hai câu văn.
+ Câu 3,4,5 là phần thân đoạn. Phần này triển khai đoạn văn, mỗi câu văn đề cập tới một biểu hiện cụ thể của chủ đề, liên quan tới chủ đề của đoạn văn.
+ Câu 6 là phần kết đoạn. Phần này khắc sâu chủ đề của đoạn văn.
	- Đây là đoạn văn có kết cấu đầy đủ cả ba phần: mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Khi viết đoạn văn, không phải bao giờ cũng nhất thiết có đủ ba phần như vậy. Ví dụ: Đoạn quy nạp, câu mở đầu đoạn không chứa đựng ý khái quát mà là câu cuối cùng; đoạn diễn dịch, câu cuối cùng kết thúc đoạn không chưa đựng ý khái quát, chủ đề đã được nêu rõ ở câu mở đoạn. 
	Về hình thức:
Đoạn văn trên được tạo thành bằng 6 câu văn được liên kết với nhau bằng các phép liên kết hình thức: phép thế, phép lặp.
Đoạn văn trên được viết giữa hai dấu chấm xuống dòng, chữ cái đầu đoạn được viết lùi vào một chữ và viết hoa.	 	
II. Kết cấu đoạn văn.
	Trong văn bản, nhất là văn nghị luận, ta thường gặp những đoạn văn có kết cấu phổ biến: quy nạp, diễn dịch, tổng phân hợp; bên cạnh đó là đoạn văn có kết cấu so sánh, nhân quả, vấn đáp, đòn bẩy, nêu giả thiết, hỗn hợp,	
1. Đoạn diễn dịch.
Đoạn diễn dịch là một đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ đề, mang ý nghĩa minh hoạ, cụ thể. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.
Ví dụ: Đoạn văn diễn dịch, nội dung nói về cá tính sáng tạo trong sáng tác thơ:
“ Sáng tác thơ là một công việc rất đặc biệt, rất khó khăn, đòi hỏi người nghệ sĩ phải hình thành một cá tính sáng tạo(1).Tuy vậy, theo Xuân Diệu - tuyệt nhiên không nên thổi phồng cái cá biệt, cái độc đáo ấy lên một cách quá đáng(2). Điêù ấy không hợp với thơ và không phải phẩm chất của người làm thơ chân chính(3). Hãy sáng tác thơ một cách tự nhiên, bình dị, phải đấu tranh để cải thiện cái việc tự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa(4) .Trong khi sáng tác nhà thơ không thể cứ chăm chăm: mình phải ghi dấu ấn của mình vào trong bài thơ này, tập thơ nọ(5). Chính trong quá trình lao động dồn toàn tâm toàn ý bằng sự xúc cảm tràn đầy, có thể nhà thơ sẽ tạo ra được bản sắc riêng biệt một cách tự nhiên, nhà thơ sẽ biểu hiện được cái cá biệt của mình trong những giây phút cầm bút”(6)..
Mô hình đoạn văn: Câu 1 là câu mở đoạn, mang ý chính của đoạn gọi là câu chủ đề. Bốn câu còn lại là những câu triển khai làm rõ ý của câu chủ đề. Đây là đoạn văn giải thích có kết cấu diễn dịch.	
2. Đoạn quy nạp. Đoạn văn quy nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý chi tiết, cụ thể nhằm hướng tới ý khái quát nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày bằng thao tác minh hoạ, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung.
Ví dụ: Đoạn văn quy nạp, nội dung nói về đoạn kết bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
“ Chính Hữu khép lại bài thơ bằng một hình tượng thơ:
	Đêm nay rừng hoang sương muối
	Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo(1).
 Đêm khuya chờ giặc tới, trăng đã xế ngang tầm súng(2). Bất chợt chiến sĩ ta có một phát hiện thú vị: Đầu súng trăng treo(3). Câu thơ như một tiếng reo vui hồn nhiên mà chứa đựng đầy ý nghĩa(4). Trong sự tương phản giữa súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được sự gắn bó gần gũi(5). Súng tượng trưng cho tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược(6). Trăng tượng trưng cho cuộc sống thanh bình, yên vui(7). Khẩu súng và vầng trăng là hình tượng sóng đôi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam bất khuất và hào hoa muôn thuở(8). Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạng bay bổng đã hoà quyện lẫn nhau tạo nên hình tượng thơ để đời(9).
Mô hình đoạn văn: Tám câu đầu triển khai phân tích hình tượng thơ trong đoạn cuối bài thơ “Đồng chí”, từ đó khái quát vấn đề trong câu cuối – câu chủ đề, thể hiện ý chính của đoạn: đánh giá về hình tượng thơ. Đây là đoạn văn phân tích có kết cấu quy nạp. 
3. Đoạn tổng phân hợp.
Đoạn văn tổng phân hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề.
Ví dụ: Đoạn văn tổng phân hợp, nội dung nói về đạo lí uống nước nhớ nguồn:
“ Lòng biết ơn là cơ sở của đạo làm người(1). Hiện nay trên khắp đất nước ta đang dấy lên phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, những bà mẹ anh hùng, những gia đình có công với cách mạng(2). Đảng và Nhà nước cùng toàn dân thực sự quan tâm, chăm sóc các đối tượng chính sách(3). Thương binh được học nghề, được trợ vốn làm ăn; các gia đình liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng được tặng nhà tình nghĩa, được các cơ quan đoàn thể phụng dưỡng, săn sóc tận tình(4). Rồi những cuộc hành quân về chiến trường xưa tìm hài cốt đồng đội, những nghĩa trang liệt sĩ đẹp đẽ với đài Tổ quốc ghi công sừng sững, uy nghiêm, luôn nhắc nhở mọi người, mọi thế hệ hãy nhớ ơn các liệt sĩ đã hi sinh anh dũng vì độc lập, tự do(5)Không thể nào kể hết những biểu hiện sinh động, phong phú của đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta(6). Đạo lí này là nền tảng vững vàng để xây dựng một xã hội thực sự tốt đẹp(7). 
Mô hình đoạn văn: Đoạn văn gốm bảy câu:
Câu đầu (tổng): Nêu lên nhận định khái quát về đạo làm người, đó là lòng biết ơn.
Năm câu tiếp ( phân): Phân tích để chứng minh biểu hiện của đạo lí uống nước nhớ nguồn.
Câu cuối (hợp): Khẳng định vai trò của đạo lí uống nước nhớ nguồn đối với việc xây dựng xã hội.
Đây là đoạn văn chứng minh có kết cấu tổng phân hợp.
4. Đoạn so sánh 
4.1. So sánh tương đồng.
Đoạn so sánh tương đồng là đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng: so sánh với một tác giả, một đoạn thơ, một đoạn văn, có nội dung tương tự nội dung đang nói đến.
Ví dụ 1: Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về câu thơ kết trong bài “ Nghe tiếng giã gạo” của Hồ Chí Minh:
 Ngày trước tổ tiên ta có câu: “ Có công mài sắt có ngày nên kim”(1). Cụ Nguyễn Bá Học , một nho sĩ đầu thế kỉ XX cũng viết: “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”(2). Sau này, vào đầu những năm 40, giữa bóng tối ngục tù của Tưởng Giới Thạch, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng đã đề cập tới tính kiên nhẫn, chấp nhận gian lao qua bài thơ “ Nghe tiếng giã gạo”, trong đ ... ép của bạn hoặc bài mẫu. Tự học qua sách tham khảo là tìm hiểu thêm những kiến thức mới hoặc những chỉ dẫn, những phương pháp tiếp cận bài học cụ thể của từng môn học. Tự học thuộc lòng những kiến thức cần ghi nhớ của bài học và những kiến thức bổ sung cần thiết. Tự học khi thực hành và liên hệ thực tế để rút ra những bài học cho bản thân về phương pháp hay kiến thức. Tự học chính là biến quá trình đào tạo của nhà trường thành quá trình tự đào tạo của bản thân, là quá trình rèn luyện nghị lực, ý chí phấn đấu vươn lên, đem lại cho bản thân khả năng hiểu biết, phân tích, cảm thụ sáng tạo. 
 Bài tập: Em hãy viết một đoạn văn quy nạp ( khoảng 10 câu), có sử dụng câu hỏi tu từ bàn về tác hại của một trong các tệ nạn xã hội mà chúng ta cần phải kiên quyết và nhanh chóng bài trừ.
Đoạn văn tham khảo:
Ngày nay xã hội ngày càng tốt đẹp, cuộc sống con người ngàu càng phát triển hơn. Nhưng thật đáng buồn, điều đó lại đồng nghĩa với việc các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, mà điển hình là tệ nưn ma tuý đang hoành hành ghê gớm, đục khoét bao gia đình và xã hội. Ma tuý là độc dược, ảnh hưởng xấu tới hệ thần kinh của con người. Hậu quả đầu tiên mà ma tuý đem lại chính là cho những người sử dụng ma tuý. Những con nghiện dù khoẻ mạnh mấy nhưng chỉ sau vài năm nghiện thì cơ thể sẽ tiều tụy, thậm chí đôi khi phải trả giá bằng cả mạng sống của mình khi bị “sốc thuốc”! Nhưng kinh khủng hơn, tiêm chích ma tuý là con đường ngắn nhất dẫn tới AIDS- người nghiện sớm muộn rồi sẽ chết. Đại dịch AIDS là một thảm hoạ của thế giới. Không chỉ dừng lại ở đó, tiêm chích ma tuý còn huỷ hoại công danh sự nghiệp của người nghiện: bạn bè, đồng nghiệp xa lánh, bị đuổi việc, con đường tương lai tươi sáng phía trước bỗng vụt tắt, tối tăm. Vậy gia đình và xã hội có phải chịu hậu quả đáng buồn của những người nghiện ma tuý hay không? Những người mẹ, người vợ cho tới những đứa con và mọi người khác trong gia đình người nghiện luôn sống trong sự đau khổ, hạnh phúc tan vỡ, của cải đội nón ra đi. Xã hội thì an ninh không được đảm bảo vì những vụ trấn lột, giết người cướp của do những con nghiện gây ra. Đại dịch AIDS đe doạ sự tồn tại và tương lai phát triển của cả xã hội và nhân loại. Ma tuý kinh khủng là thế nhưng chúng ta vẫn có thể phòng trừ nó. mỗi chúng ta hãy nói “không” với ma tuý; hãy biết tự kiềm chế mình, tránh xa ma tuý, tự biết bảo vệ mình. Hơn thế nữa, chúng ta hãy nói với mọi người, với gia đình, bạn bè cần biết rõ tác hại của ma tuý. Hãy cùng nhau ngăn chặn nó. Và quan trọng hơn nữa, mỗi chúng ta hãy cùng nhau giúp đỡ những người nghiện để họ đừng quá lún sâu vào ma tuý. Kiên quyết bài trừ tệ nạn ma tuý là nhiệm vụ của mỗi người, mỗi tập thể, của cả xã hội nhằm xây dựng một môi trường sống lành mạnh cho con người.
12. Bài tập: Nhân dân ta thường khuyên nhau:
“ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng”
Em hãy viết đoạn văn tổng phân hợp ( khoảng 10-12 câu), có sử dụng ít nhất hai phương tiện liên kết câu để bàn về lời khuyên trên.
Đoạn văn tham khảo:
Tình yêu thương đoàn kết dân tộc được thể hiện trong câu ca dao:
	“ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
	Người trong một nước phải thương nhau cùng”
là vô cùng cao cả và thiêng liêng. Tình nghĩa nồng thắm ấy đã in sâu vào trái tim khối óc người Việt Nam, tạo nên bản sắc dân tộc. Mỗi hình ảnh, mỗi từ ngữ trong câu ca dao đều chứa đựng tâm ý sâu sắc. “ Giá gương” là một vật dụng đặt trên bàn thờ gia tiên, một biểu tượng thiêng liêng của người đã khuất. Trên giá gương có thể là một tấm ảnh, một tờ giấy ghi một vài nét về tiểu sử, công đức của người đsng được thờ cúng. Giá gương thường được son thiếp vàng rất đẹp, một vẻ đẹp cổ kính trang nghiêm. “ Nhiễu điều” là một thứ hang dệt cao cấp( vóc, nhiễu, the, lụa) màu đỏ thắm (điều). Đem nhiễu điều phủ lấy giá gương, làm cho giá gương đã đẹp lại càng them đẹp, them trang trọng. Chữ “phủ” trong câu ca dao có nghĩa là che chở, bao bọc, biểu thị một thái độ, một tấm long tôn kính, biết ơn của con cháu đối với ông bà, tổ tiên. Hình ảnh gắn bó vừa thiêng liêng vừa thương cảm. Đi từ cụ thể tới trừu tượng, từ so sánh tới khái quát, nhân dân ta đã lấy hình ảnh “ nhiễu điều phủ lấy giá gương” để qua đó, nêu lên một bài học đạo lí có giá trị giáo dục sâu sắc: khuyên nhủ mọi người Việt Nam gìn giữ và nêu cao tình yêu thương đoàn kết dân tộc. “ Người trong một nước phải thương nhau cùng” bởi cùng chung cội nguồn, nòi giống con Rồng cháu Tiên. Năm mươi tư dân tộc anh em, dù là Nam hay Bắc, miền ngược hay miền xuôi đều là anh em trong đại gia đình Việt Nam, chung một lãnh thổ, chung một lịch sử, chung một nền văn hoá lâu đời. Tình thương yêu đoàn kết dân tộc là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là đạo lí sống của nhân dân ta, là cơ sở của tình yêu nước. Tình yêu thương đoàn kết dân tộc tạo cho ta sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng thiên tai lũ lụt, thù trong giặc ngoài, tương thân tương ái, xây dựng một “ xã hội văn minh, dân giàu, nước mạnh”.
 Bài tập: Hãy viết một đoạn văn nêu lên suy nghĩ của em về truyện ngụ ngôn “ Đẽo cày giữa đường” theo phép quy nạp ( khoảng 8 – 10 câu), có sử dụng phép thế. 
Đoạn văn tham khảo: 
Trong kho tàng văn học dân gian, cùng để gửi gắm một tư tưởng, một nhận xét về hiện thực khách quan, có thể có nhiều sáng tác. Trong những câu chuyện cười, truyện ngụ ngôn hoặc thành ngữ ( “ Treo biển”, “ Yết thị”, “ Lắm thầy thối ma”, “ Rằm cũng ừ, mười tư cũng gật”,) có ý răn dạy về việc tiếp thu ý kiến của người khác, truyện ngụ ngôn “Đẽo cày giữa đường” là một truyện rất độc đáo, ấn tượng. Người kia muốn kiếm một nghề để mưu sinh, điêù đó thật đáng khen. Anh chọn nghề đẽo cày để bán, điều đó cũng thật đáng khen. Công việc làm ăn tưởng chừng thông đồng bén giọt, nào ngờmột tình huống đặc biệt xuất hiện: Nghe người ta mách trên rừng người ta cày bằng voi, phải đẽo cày thật cao, thật to cho voi cày ắt sẽ bán chạy, anh làm theo. Kết quả cuối cùng là cày không bán được, vốn liếng đi đời nhà ma! Như vậy, mặc dầu có ý đồ ban đầu tốt, nhưng vì nghe theo lời người khác một cách mù quáng, không động não suy nghĩ, không tìm hiểu kĩ lưỡng nên anh dã chuốc lấy thất bại thảm hại. Từ đó mới có thành ngữ “đẽo cày giữa đường” để răn dạy những kẻ ba phải, không có chính kiến trước một sự việc, hiện tượng 
14. Bài tập: Viết một đoạn văn tổng phân hợp, trong đó sử dụng ít nhất hai phép liên kết ( khoảng 10 câu), nêu lên vai trò và tác dụng của sách trong đời sống con người. 
Đoạn văn tham khảo:
“ Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới” ( M. goocki), Câu nói ấy hàm chứa một ý nghĩa phong phú và một chân lí, một lời khuyên. Từ lâu con người đã biết đến sự kì diệu của sách. Sách, đó là cái thần kì trong những cái thần kì mà nhân loại đã sáng tạo nên. Sách là cái cần có để con người lưu giữ và truyền lại cho người khác, cho thế hệ khác, những hiểu biết của mình về thế giới xung quanh, những khám phá về vũ trụ và con người, cả những ý nghĩ, những quan niệm, những mong nuốn về cuộc sống cần gửi đến cho mọi người và trao gửi đến mai sau. Sách là kho tàng chứa đựng những hiểu biết của con người đã được khám phá, chọn lọc, thử thách, tổng hợp. Sách là nơi kết tinh những tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại, những hoài bão mạnh mẽ nhất, những tình camt tha thiết nhất của con người. Chỉ có những gì mà con người cảm thấy bức xúc cần nói lên, cần truyền lại, mới đi vào trang sách. Sách đã vượt qua được giới hạn của không gian và thời gian: có sách, các thế kỉ và các dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau. Sách khoa học giúp người đọc khám phá ra vũ trụ vô tận với những quy luật của nó. Sách xã hội học giúp ta hiểu biết vrrf đời sống con người trên các vùng đất khác nhau với những đặc điểm về kinh tế, lịch sử, văn hoá, những truyền thống, những khát vọng. Sách văn học giúp ta hiểu biết về thế giới bên trong của con người với những vui buồn, hạnh phúc và đau khổ, khát vọng và tranh đấu, giúp ta phát hiện ra chính mình, Những trang sách hay, có ích không chỉ làm tăng thêm hiểu biết, giá trị và sức mạnh của mỗi cá nhân mà nó còn phát huy tác dụng kì diệu, “mở rộng những chân trời mới” cho cả nhân loại.
Bài tập: Viết đoạn văn quy nạp, bàn luận câu tục ngữ: “ Lá lành đùm lá rách”.
Đoạn văn tham khảo:
“ Lá lành đùm lá rách” gợi lên hình ảnh những lớp lá, chiếc lá lành, chiếc lá rách được xếp đặt cạnh nhau để gói các loại bánh lá. Bài học về nhữngchiếc lá gói bánh gợi lên một bài học về đạo lí làm người, về quan hệ giữa con người với nhau. Trong cuộc sống, con người cần được sự giúp đỡ chia sẻ của người khác, nhất là khi gặp khó khăn. Sự đùm bọc lẫn nhau, sự tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn đã trở thành đạo lí làm người. Đây là thái độ “ nhường cơm sẻ áo” giữa những người cùng chung cảnh ngộ, trong một cộng đồng, trên cùng một đất nước. Tuy “lành”, “rách” khác nhau nhưng cùng là lá. Đây không phải là “bố thí” mà là sự chia sẻ, sự thông cảm khi hoạn nạn khó khăn. Con người sốngtrong xã hội không thể lẻ loi, đơn độc một mình. Trong cuộc sống, mỗi ngườicũngcó những hoàn cảnh , khó khăn riêng cần có sự chia sẻ của người khác.
Bài tập luyện tập:
Tháng 3, trường em tổ chức giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ đề “ Quà dâng mẹ”. Em hãy viết một đoạn văn diễn dịch khoảng 10 – 12 câu, trong đó có phép thế, phát biểu suy nghĩ của mình về buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp đầy ấn tượng ấy.
Tháng 11, trường em tổ chức giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ đề “ Tôn sư trọng đạo”. Em hãy viết một đoạn văn quy nạp khoảng 10 – 12 câu, trong đó có sử dụng phép lặp từ ngữ, phát biểu suy nghĩ của mình về buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đầy ấn tượng âý với em.
Em hãy viết đoạn văn ( khoảng 10 câu) bàn về “ văn hoá hội họp” hiện nay theo phép tổng phân hợp, có sử dụng ít nhất hai phép liên kết. 
Bạn em say mê học toán nhưng chưa thích học văn. Em hãy viết một đoạn văn (khoảng 10 câu) góp ý kiến với bạn để giúp bạn học tập toàn diện hơn.
Một số bạn em có phần lơ là học tập. Em hãy viết một đoạn văn ( khoảng 10 – 12 câu) để thuyết phục các bạn ấy tin rằng đúng như người xưa từng nhắc nhở: nếu còn trẻ mà không chịu học hành thì khi lớn lên sẽ chẳng thể làm việc gì có ích.
Một hiện tượng khá phổ biến hiện nay là vứt rác ra đường hoặc những nơi công cộng. Em hãy đặt một nhan đề cho hiện tượng ấy và viết mmột đoạn văn ( khoảng 10-12 câu) nêu suy nghĩ của mình.
Lớp em tổ chức buổi trao đổi về đề tài: Cái gì quý nhất? Em hãy viết một đoạn văn (10-12 câu) bày tỏ ý kiến của mình trong cuộc trao đổi đó.
Viết một đoạn văn quy nạp từ 6-8 câu nói về mục đích học tập của người học sinh ( có sử dụng phép liên kết).
Viết một đoạn văn từ 8 – 10 câu, trong đó có sử dụng biện pháp tu từ nội dung nó về nhiệm vụ của người học sinh phải bảo vệ môi trường sống của quê hương. 
 Viết một đoạn văn quy nạp từ 8- 10 câu, trong đó có dùng phép liên tưởng để liên kết câu, nội dung nói về phát triển dân số của nước ta và thế giới.

Tài liệu đính kèm:

  • doccach viet doan van - huong dan vao 10.doc