Trong bài học này, về kiến thức, học sinh cần nắm được một số biểu hiện của phong cách
Hồ Chí Minh trong đời sống và trong sinh hoạt; ý nghĩa của phong cách Hồ Chí Minh trong
việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; đặc điểm của kiểu bài nghị luận xã hội qua một đoạn
văn cụ thể. Về kĩ năng, học sinh nắm bắt được nội dung văn bản nhật dụng thuộc chủ đề hội
nhập với thế giới và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời biết vận dụng các biện pháp
nghệ thuật trong việc viết văn bản về một vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, lối sống.
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH Lê Anh Trà Trong bài học này, về kiến thức, học sinh cần nắm được một số biểu hiện của phong cách Hồ Chí Minh trong đời sống và trong sinh hoạt; ý nghĩa của phong cách Hồ Chí Minh trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; đặc điểm của kiểu bài nghị luận xã hội qua một đoạn văn cụ thể. Về kĩ năng, học sinh nắm bắt được nội dung văn bản nhật dụng thuộc chủ đề hội nhập với thế giới và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời biết vận dụng các biện pháp nghệ thuật trong việc viết văn bản về một vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, lối sống. I - GIỚI THIỆU CHUNG Văn bản trích từ bài viết Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị của Lê Anh Trà, in trong tập Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam (Viện Văn hóa xuất bản, Hà Nội, 1990). II - ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN 1. Nội dung a. Yếu tố tạo thành cốt cách văn hóa dân tộc của Hồ Chí Minh - Trong cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian nan vất vả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa từ phương Đông tới phương Tây. Người có hiểu biết sâu rộng nền văn hóa các nước châu Á, châu Âu, châu Phi và châu Mĩ. - Để có được vốn tri thức văn hóa sâu rộng ấy, Bác Hồ đã: + Nắm vững ngôn ngữ - là phương tiện giao tiếp. Bác nói và viết thông thạo nhiều thứ tiếng như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Hoa,... + Làm nhiều nghề, qua công việc mà Bác học hỏi để mở rộng kiến thức. + Học hỏi, tìm hiểu cặn kẽ, thấu đáo đến mức khá uyên thâm. - Một điều rất quan trọng là Người đã tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nước ngoài: + Không để bị ảnh hưởng một cách thụ động, Bác đã chủ động tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay và phê phán những hạn chế và tiêu cực nếu có. + Lấy văn hóa dân tộc làm nền tảng mà tiếp thu những ảnh hưởng của tinh hoa văn hóa thế giới. - Chỗ độc đáo, kì lạ nhất trong phong cách văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa những phẩm chất rất khác nhau, thống nhất trong một con người Hồ Chí Minh, đó là truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây, xưa và nay, dân tộc và quốc tế, vĩ đại và bình dị,... Đó là sự kết hợp hài hòa bậc nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. b. Biểu hiện của phong cách Hồ Chí Minh - Chủ tịch Hồ Chí Minh ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước nhưng Người lại có một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông + Nơi ở, nơi làm việc đơn sơ: chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao như cảnh ở một làng quê quen thuộc; chiếc nhà sàn đó cũng chỉ vẻn vẹn có vài phòng tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ với những đồ đạc rất mộc mạc, đơn sơ. + Trang phục hết sức giản dị: bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ ; tư trang thì ít ỏi, chỉ có một chiếc va li con với vài bộ áo quần, vài vật kỉ niệm... + Ăn uống đạm bạc: cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa. Xưa nay chưa có vị nguyên thủ quốc gia nào có cách sống giản dị như vậy. Đó là nếp sống của các vị hiền triết xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm - nếp sống thanh đạm, thanh cao. - Tuy Người sống giản dị, đạm bạc nhưng lại vô cùng thanh cao và sang trọng: + Đây không phải là lối sống khổ hạnh hay lập dị của những con người tự vui trong cảnh nghèo khó. + Đây là một cách sống có văn hóa đã trở thành một quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên. - Phong cách của Hồ Chí Minh cũng giống với các vị danh nho xưa ở chỗ không phải tự thần thánh hóa, tự làm cho khác người, lập dị mà là cách di dưỡng tinh thần - một quan niệm thẩm mĩ đẹp đẽ về lẽ sống. Tuy nhiên, phong cách của Người cũng khác các vị danh nho xưa ở chỗ: đây là lối sống của một người cộng sản lão thành, một vị Chủ tịch nước, linh hồn của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội. 2. Nghệ thuật - Sử dụng ngôn ngữ trang trọng. - Kết hợp giữa kể và bình luận. Đan xen giữa những lời kể và lời bình luận một cách tự nhiên. - Chọn lọc những chi tiết tiêu biểu. - Đan xen thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, cách dùng từ Hán Việt gợi cho người đọc thấy sự gần gũi giữa Hồ Chí Minh với các bậc hiền triết của dân tộc. - Sử dụng nghệ thuật đối lập: vĩ nhân mà hết sức giản dị, gần gũi; am hiểu mọi nền văn hóa nhân loại mà đậm đà bản sắc Việt Nam. 3. Ý nghĩa văn bản Vẻ đẹp của phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, giữa thanh cao và giản dị. Qua đây, tác giả như muốn đặt ra một vấn đề: cần phải hòa nhập với khu vực và quốc tế nhưng cũng phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. III - HƯỚNG DẪN TỰ HỌC 1. Tìm đọc một số mẩu chuyển về cuộc đời hoạt động của Bác a. Câu chuyện thứ nhất Tháng 6 - 1954, sau chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tới Giơ-ne-vơ để đàm phán. Hội nghị kéo dài được gần một tháng thì các bên tạm nghỉ để về nước báo cáo lập trường các bên cho chính phủ mình. Trên đường về Việt Nam, các bạn Trung Quốc đã mời phái đoàn Việt Nam nghỉ lại Trung Quốc. Phái đoàn Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn đầu. Hôm đó, Bác nghỉ tạm tại nhà nghỉ Đảng bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Quảng Tây. Buổi sáng Bác Hồ đi họp; ở nhà, một cán bộ của nước bạn đi kiểm tra phòng Bác xem các nhân viên phục vụ phòng có chu đáo không. Sau khi xem xét một lượt, anh ta thấy trên sàn nhà một mảnh vải đã cũ, dài khoảng 80cm, rộng khoảng 10cm, màu vàng đã bạc. Đoán rằng đây là dây gói tài liệu rớt ra sau khi cầm tài liệu đi, anh ta bỏ mảnh vải vào thùng đựng giấy rác. Bác đi họp về, hỏi: “Thắt lưng của tôi đâu? Tôi thường để sau ghế tựa nên bị rơi xuống đất”. Lúc này mọi người mới vỡ lẽ vội đi tìm và đưa lại cho Bác. Một chiếc thắt lưng bằng da, bằng dây dù... cũng không đắt hơn một miếng vải là bao. Nhưng vấn đề ở đây chính là cái quí báu trong nhân cách của Bác - cái riêng bao giờ cũng là tối thiểu, cái dành cho sự nghiệp chung bao giờ cũng được ưu tiên tối đa. Phẩm chất trong sáng thể hiện thường trực trong những cử chỉ của Bác, dù nhỏ nhất. Thời điểm đó, sau chiến dịch Điện Biên Phủ, thắt lưng chiến lợi phẩm thu được rất nhiều, nhưng Bác vẫn chỉ tiếp tục dùng chiếc thắt lưng quen thuộc cũ kĩ của mình. b. Câu chuyện thứ hai Bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, kể lại rằng: Khi làm việc ở Văn phòng, đôi khi bà còn đảm nhận việc khâu, vá quần áo, chăn, màn, áo gối cho Bác. Công việc này giúp bà có điều kiện được gần Bác và học tập được rất nhiều, nhất là đức tính giản dị, tiết kiệm. Áo Bác rách, có khi vá đi vá lại, Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh hoà bình của Người thường được chú Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại. Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng rưng nước mắt. Bà nói với chú Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác chưa đồng ý. Người vẫn dùng chiếc áo gối vá. Những năm tháng giúp việc ở Văn phòng của Bác, bà Nguyễn Thị Liên đã có những kỉ niệm không bao giờ quên. Bà kể rằng: Ở Việt Bắc, có một buổi Bác đi công tác về muộn, về qua Văn phòng, Bác nghỉ lại một lát vì mệt. Anh Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác nói với bà: “Bác mệt không ăn được cơm. Cô nấu cho Bác bát cháo”. Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền nhỏm dậy bảo: “Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội ấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi bỏ phí cơm thừa”. Câu chuyện bà kể khiến mọi người đều xúc động và thương Bác quá chừng. Bác thật giản dị và tiết kiệm, chắt chiu như người cha lo cho một gia đình lớn, như cảnh nhà đông con mà còn túng thiếu. Chiếc áo gối vá, bát cháo nấu bằng cơm nguội của vị Chủ tịch Nước có tác động lớn đến suy nghĩ của mỗi con người. Nhất là hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang mở cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Những câu chuyện nhỏ trên đây chính là một trong những nét đẹp về đạo đức Bác Hồ để chúng ta cùng học tập. c. Câu chuyện thứ ba Theo lời kể của những người từng được sống gần Bác hoặc qua những tư liệu còn lưu trữ được, chúng ta thấy việc ăn, mặc, ở cũng như sinh hoạt, chi tiêu hàng ngày Bác đều hết sức tiết kiệm. Mỗi bữa ăn, Bác quy định không quá 3 món và thường là các món dân tộc như: tương cà, dưa, cá kho... Bác bảo ăn món gì phải hết món ấy, không được để lãng phí. Có quả chuối hơi “nẫu”, nhiều người ngại không ăn, Bác bảo lấy dao gọt phần nẫu đi để ăn. Khi đi công tác các địa phương, Bác thường bảo các đồng chí phục vụ chuẩn bị cơm nắm, thức ăn từ nhà mang đi. Chỉ khi nào công tác ở đâu lâu, Bác mới chịu ăn cơm, nhưng trước khi ăn, bao giờ Bác cũng dặn “chủ nhà” là: “Đoàn đi có từng này người, nếu được, chỉ ăn từng này, từng này”... Có thể dẫn ra nhiều câu chuyện về cách ăn uống chắt chiu, tiết kiệm của Bác. Thậm chí liên hoan chào mừng Ngày thành lập Đảng cũng chỉ có bát cơm, món xào, tô canh và đĩa cá. Khi tiếp đãi khách, Bác thường nói: “Chủ yếu là thật lòng với nhau”. Chiêu đãi đồng chí Lý Bội Quần, người Trung Quốc đã giúp Bác mua chiếc máy chữ từ Hải Phòng mang về, Bác cũng chỉ “khao” một món canh và hai đĩa thức ăn, có thêm chén rượu gạo, tổng cộng chưa hết một đồng bạc, thế mà vẫn đậm đà tình cảm giữa chủ và khách. Bác nói: “Ở đời ai chẳng thích ăn ngon, mặc đẹp, nhưng nếu miếng ngon đó lại đánh đổi bằng sự mệt nhọc, phiền hà của người khác thì không nên”. Hơn nữa, Bác luôn nghĩ đến người khác, có món gì ngon không bao giờ Bác ăn một mình. Bác sẻ cho người này, sẻ cho người kia rồi sau cùng mới đến phần mình và phần Bác thường là ít nhất. Trong trang phục hằng ngày, Bác chỉ có bộ quần áo dạ màu đen mặc khi đi ra nước ngoài; chiếc mũ cát Bác đội khi đi ra ngoài trời; chiếc áo bông, áo len Bác mặc trong mùa lạnh và một vài bộ quần áo gụ Bác mặc làm việc mùa hè. Nói về sự giản dị trong cách ăn mặc của Bác, có lẽ ấn tượng nhất phải kể đến đôi dép cao su và bộ quần áo ka-ki. Đôi dép cao su được Bác dùng hơn 20 năm đến khi mòn gót phải lấy một miếng cao su khác vá vào, các quai hay bị tuột phải đóng đinh giữ. Còn bộ quần áo ka-ki Bác mặc đến khi bạc màu, sờn cổ áo. Những người giúp việc xin Bác thay bộ quần áo mới thì Bác bảo: “Bác mặc như thế phù hợp với hoàn cảnh của dân, của nước, không cần phải thay”. Về chỗ ở, khi Bác mới về nước là một hang đá thuộc Pắc Pó, Cao Bằng. Sau này vì bí mật nên Bác phải ở nhà riêng nhưng rất đơn giản. Nhà làm nhỏ, bốn bề với tay được vì tiết kiệm nguyên vật liệu. Đến năm 1954, Chính phủ chuyển về thủ đô Hà Nội, nhiều người đề nghị Bác ở Phủ Toàn quyền Đông Dương tráng lệ, nhưng Bác đã từ chối và chỉ chọn căn phòng nhỏ của người thợ điện đơn sơ bên ao cá để ở. Mãi đến ngày 17/5/1958, Bác mới chuyển về ở căn nhà sàn chỉ vẻn vẹn có 23,14 m2 cho đến lúc qua đời. Nhận xét về nếp sống giản dị của Bác, một tờ báo nước Pháp đã viết: “Sự ăn ở giản dị đến cực độ, như một nhà ẩn sĩ, đó là một đức tính rõ rệt nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một tuần lễ ông nhịn ăn một bữa, không phải là để hạ mình cho khổ sở, mà là để nêu một tấm gương dè xẻn gạo cho đồng bào đặng làm giảm bớt nạn đói trong nước. Hết thảy mọi người xung quanh đều bắt chước hành động đó của ông...”. 2. Tìm hiểu nghĩa của một số từ Hán Việt trong đoạn trích - truân chuyên: gian nan, vất vả (truân: khó khăn; chuyên: không thuận lợi). - trùng dương: biển cả liên tiếp nhau (trùng: nhiều lớp chồng lên nhau; dương: biển). - ngoại quốc: nước ngoài (ngoại: ngoài; quốc: nước). - lãnh tụ: người được tôn làm người lãnh đạo một phong trào đấu tranh, một chính đảng, một nước; cũng như việc khi cởi áo trước hết phải cầm cổ áo, rồi sau đó mới cầm tay áo (lãnh: cổ áo; tụ: tay áo). - uyên thâm: có kiến thức rất sâu về một lĩnh vực chuyên môn nào đó (uyên: sâu rộng; thâm: sâu). - quốc tế: các nước trên thế giới (quốc: đất nước; tế: họp lại, giao thiệp). - siêu phàm: vượt lên trên người thường hoặc những điều thường thấy (siêu: cao vượt lên trên; phàm: tầm thường). - chủ tịch: người đứng đầu lãnh đạo một cơ quan làm việc theo chế độ hội đồng (chủ: đứng đầu; tịch: cái chiếu). - chủ nhân: người chủ (chủ: cốt yếu; nhân: người). - trang phục: quần áo mặc ngoài, nói chung (trang: quần áo, phục: quần áo). - trấn thủ: bảo vệ nơi xung yếu, chống mọi sự xâm chiếm, xâm nhập (trấn: giữ gìn; thủ: giữ). - thô sơ: đơn giản, sơ sài, chưa được nâng cao về mặt kĩ thuật (thô: không tinh; thiển: nông cạn). - đạm bạc (nói về ăn uống): đơn sơ, bình thường, không có các món ăn ngon, đắt tiền (đạm: nhạt; bạc: mỏng).
Tài liệu đính kèm: