ÔN LUYỆN VỀ KIỂU BÀI TỰ SỰ
Số tiết: 6
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
Trên cơ sở hiểu biết những nét cơ bản về văn tự sự, giúp học sinh:
-Hiểu được vai trò của miêu tả nội tâm; mối quan hệ giữa nội tâm với ngoại hình, ngoại cảnh trong văn bản tự sự.
-Nắm được khái niệm về lập luận, các dấu hiệu của lập luận trong văn bản tự sự.
- Cung cấp cho các em phương pháp giúp bài văn tự sự đạt hiệu quả hơn .
(biết vận dụng các thao tác hỗ trợ như: kết hợp tự sự với miêu tả, miêu tả nội tâm, nghị luận.)
- Hướng dẫn thực hành theo từng nội dung ôn luyện để rèn kỹ năng làm văn tự sự.
B. CHUẨN BỊ:
1. Giáo viên:
-Tài liệu: Rèn kĩ năng làm văn tự sự ở trung học cơ sở.
-Viết chủ đề với các nội dung chính:
+Tiết 1-2:Tự sự kết hợp với miêu tả và miêu tả nội tâm.
+Tiết 3-4: Sử dụng lập luận trong văn bản tự sự.
+Tiết 5-6:Thực hành tổng hợp:
-Các dạng bài tập liên quan.
ÔN LUYỆN VỀ KIỂU BÀI TỰ SỰ Số tiết: 6 A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: Trên cơ sở hiểu biết những nét cơ bản về văn tự sự, giúp học sinh: -Hiểu được vai trò của miêu tả nội tâm; mối quan hệ giữa nội tâm với ngoại hình, ngoại cảnh trong văn bản tự sự. -Nắm được khái niệm về lập luận, các dấu hiệu của lập luận trong văn bản tự sự. - Cung cấp cho các em phương pháp giúp bài văn tự sự đạt hiệu quả hơn . (biết vận dụng các thao tác hỗ trợ như: kết hợp tự sự với miêu tả, miêu tả nội tâm, nghị luận...) - Hướng dẫn thực hành theo từng nội dung ôn luyện để rèn kỹ năng làm văn tự sự. B. CHUẨN BỊ: 1. Giáo viên: -Tài liệu: Rèn kĩ năng làm văn tự sự ở trung học cơ sở. -Viết chủ đề với các nội dung chính: +Tiết 1-2:Tự sự kết hợp với miêu tả và miêu tả nội tâm. +Tiết 3-4: Sử dụng lập luận trong văn bản tự sự. +Tiết 5-6:Thực hành tổng hợp: -Các dạng bài tập liên quan. 2. Học sinh: Ôn lại kiến thức văn tự sự lớp 8,9. C. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP: Tiết 1-2: Tự sự kết hợp với miêu tả và miêu tả nội tâm. Phần 1: Tìm hiểu về miêu tả nội tâm: -Đối tượng của miêu tả nội tâm là những suy nghĩ, tình cảm, diễn biến tâm trạng của nhân vật... những gì không quan sát được cách trực tiếp.Cái khó nhất của miêu tả nội tâm là phải lột tả được cái thần của con người, sự vật Vì thế, người viết phải có tính sáng tạo, phải có năng lực quan sát tinh tế, nhạy cảm, trí tưởng tượng phong phú mới có thể thành công. -Giữa miêu tả bên ngoài và miêu tả nội tâm có mối quan hệ với nhau. Nhiều khi từ việc miêu tả bên ngoài mà người viết cho ta thấy được tâm trạng bên trong của nhân vật. Ngược lại, từ việc miêu tả tâm trạng bên trong, người đọc hiểu được hình thức bên ngoài. - Miêu tả nội tâm nhân vật có thể được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại và tả cảnh ngụ tình. Ngôn ngữ độc thoại là lời nói thầm bên trong, nhân vật tự nói với chính mình. Tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh để gửi gắm tâm trạng. Cảnh là phương tiện miêu tả, còn tâm trạng là mục đích miêu tả. * Lưu ý: a. Tâm trạng nhân vật có các dạng: - Tâm trạng thuần nhất: Có tâm trạng buồn, có tâm trạng vui, tâm trạng đau khổ thất vọng, tâm trạng sảng khoái tràn đầy hy vọng - Tâm trạng phức hợp: Có tâm trạng mừng mừng tủi tủi, vừa hy vọng vừa âu lo, vừa tự hào vừa chua xót b. Các yếu tố miêu tả nội tâm làm cho ý nghĩa của chuyện thêm thấm thía, sâu sắc. Nhưng phải thấy được rằng nòng cốt của văn tự sự là sự việc và nhân vật chính. Không quá coi trọng yếu tố nội tâm mà quên sự việc của chuyện. Phần 2: Hướng dẫn học sinh xác định yếu tố nội tâm trong các ví dụ. a.Miêu tả nội tâm trong văn bản thơ tự sự: Đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Truyện Kiều” - Nguyễn Du) Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ mới phai Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm Buồn trông cửa biển chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa... - Miêu tả cảnh vật - Miêu tả nội tâm - Miêu tả nội tâm bằng ngôn ngữ độc thoại (tâm trạng nhớ cha mẹ, nhớ người yêu) - Miêu tả nội tâm bằng tả cảnh ngụ tình (tâm trạng đau buồn lo âu)... b. Miêu tả nội tâm trong truyện bằng văn xuôi: “ Một vụ cãi lộn” (“Những tấm lòng cao cả”- Ed. Amixi) Thật thế, không,tuyệt nhiên không phải do ganh tỵ vì cậu ấy được phần thưởng còn tôi thì chẳng có gì. Thế mà sáng nay tôi lại cãi nhau với Cô rét ti. Thật không phải vì ganh tỵ, nhưng dù thế tôi cũng phải nhận là mình có lỗi. Thầy giáo xếp cậu ấy ngồi cạnh tôi, tôi đang nắn nót từng chữ trên vở tập viết thì Côretti chạm khuỷu tay vào làm cho cây bút của tôi vẽ ra một cái móc quái gỡ, lại dây mực vào truyện kể hàng tháng mà tôi chép cho cậu bé thợ nề bị ốm. Tôi nổi giận nói một câu bất nhã.Côretti cười trả lời rằng: “Mình không cố ý đâu”. Lẽ ra tôi phải tin cậu ấy vì tôi biết cậu ấy lắm, nhưng cái cười của Côretti làm tôi bực mình và tôi nghĩ: giờ nó được phần thưởng, nó thành ra kiêu căng. Lát sau, để trả thù, tôi đẩy Côretti một cái đến nỗi hỏng hết trang tập viết của cậu ta. Côretti giận đỏ mặt, nói: “ Này, cậu cố ý đấy nhé”, vừa nói vừa giơ tay định đánh tôi. Thầy giáo nhìn, cậu ấy bỏ tay xuống nhưng lại nói thêm: “Chốc nữa tao đợi mày ở cổng” Tôi tự thấy khó chịu, cơn giận của tôi đã lắng xuống và tôi thấy hối hận. Không, Côretti không bao giờ cố ý đẩy mình vì cậu ta rất tốt. Tôi nhớ lại hôm đến nhà cậu, tôi thấy cậu vừa học vừa chăm sóc mẹ ốm; với lại tôi dã tiếp cậu rất chu đáo tại nhà mình và bố cũng thấy cậu rất hợp ý bố... - Miêu tả nội tâm bằng độc thoại - Văn tự sự - Miêu tả nội tâm bằng độc thoại - Văn tự sự - Miêu tả nội tâm bằng độc thoại Phần III- Thực hành: Bài tập 1: Xác định yếu tố tự sự, yếu tố miêu tả, yếu tố nội tâm trong đoạn văn sau: “ Mẹ tôi lấy vạt áo nâu thấm nước mắt mắt cho tôi rồi xốc nách tôi lên xe. Đến bấy giờ tôi mới kịp nhận ra mẹ tôi không còm cõi quá như cô tôi nhắc lại lời người họ nội của tôi. Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má. Hay tại sự sung sướngbỗng được trông nhìn và ôm ấp cái hình hài máu mủ của mình mà mẹ tôi lại tươi đẹp như thuở còn sung túc? Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường. Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ êm dịu vô cùng. Từ ngã tư đầu trường học về đến nhà, tôi không còn nhớ mẹ tôi đã hỏi và tôi đã trả lời mẹ tôi những câu gì.” Bài tập 2: Bổ sung những từ ngữ, hình ảnh, câu văn miêu tả để viết lại đoạn văn tự sự sau đây sao cho cách diễn đạt trở nên hấp dẫn, sinh động hơn . Một buổi sáng chủ nhật, chúng tôi đến nhà Hà để học nhóm. Sau mấy ngày mưa, đường làng như được láng một lớp bùn loãng, rất trơn. Cả bọn tay xách dép, quần xắn cao, nối nhau đi men theo bờ cỏ. Đứa nào cũng sợ trượt ngã, cố bám mấy ngón chân xuống nền đường, trông cứ như em bé đang tập đi vậy Bài tập 3 : Dùng yếu tố miêu tả để viết tiếp câu văn sau đây , tạo thành những đoạn văn tự sự có nội dung chứng minh hoặc giải thích cho nhận xét của nhân vật . Thầy giáo tôi là người rất nghiêm khắc, mới tiếp xúc thì chúng tôi thấy sợ, nhưng được học với thầy một thời gian, chúng tôi lại vô cùng kính trọng và biết ơn sự nghiêm khắc của thầy. Tiết 3-4: Sử dụng lập luận trong văn bản tự sự. Phần1: Tìm hiểu về lập luận trong văn bản tự sự: Hướng dẫn học sinh nắm lại khái niệm và xác định những dấu hiệu của lập luận trong văn bản tự sự để trên cơ sở đó, học sinh dễ dàng nhận ra lập luận trong văn bản, đồng thời biết vận dụng lập luận vào trong sáng tác của mình. 1. Khái niệm: - Lập luận là trình bày lý lẽ một cách có hệ thống, có lôgic nhằm chứng minh cho một kết luận về một vấn đề. -Để lập luận chặt chẽ, hợp lý, người ta thường dùng các từ và câu lập luận. 2. Những dấu hiệu của lập luận trong văn bản tự sự: - Lập luận thực chất là các cuộc đối thoại với người hoặc với chính mình, trong đó người viết thường nêu lên các nhận xét, phán đoán, các lý lẽ nhằm thuyết phục người nghe,người đọc về một vấn đề gì đó. - Trong lập luận, người ta ít dùng câu miêu tả, trần thuật...mà dùng những loại câu khẳng định, phủ định, câu có các mệnh đề hô- ứng như: nếu thì; không những mà còn; càng càng; vì thế cho nên - Trong câu văn nghị luận, người ta thường dùng nhiều từ lập luận như: tại sao, thật vậy, tuy thế, trước hết, sau cùng, nói tóm lại... Phần 2: Minh hoạ bằng phân tích các ví dụ: Hướng dẫn học sinh xác định các yếu tố nghị luận, trình tự lập luận, vấn đề chính của lập luận trong các đoạn văn bản a. Lập luận của vợ ông giáo trong “Lão Hạc” của Nam Cao: Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi: - Cho lão chết! (1) Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! (2)Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ! (3) Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? (4) Chính con mình cũng đói (5)... LẬP LUẬN DIỄN DỊCH a- Luận điểm: câu 1 b- Luận cứ: - Lý lẽ 1: câu 2 - Lý lẽ 2: câu 3 - Lý lẽ 3: câu 4 - Dẫn chứng: câu 5 b- Lập luận của ông giáo trong “Lão Hạc” của Nam Cao: Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ bần tiện, ngu ngốc, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thương...(1) Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. (2a) Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? (2b) Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. (2c) Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỷ che lấp mất. (2d) Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn thôi chứ không nỡ giận. (6) LẬP LUẬN QUY NẠP a- Luận cứ: -Lý lẽ 1: câu 1 - Lý lẽ 2: câu 2a +Dẫn chứng: 2b + Lý lẽ: 2c + Lý lẽ: 2d b- Luận điểm: câu 6 Phần III- Thực hành: Bài tập 1. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới: CÁI GÌ QUÝ NHẤT Một hôm trên đường đi học về, Hùng, Qúy và Nam trao đổi với nhau xem trên đời này cái gì quý nhất. Hùng nói: “ Theo tớ, quý nhất là lúa gạo. Các cậu có thấy ai không ăn mà sống được không?”. Quý và Nam cho là có lí. Nhưng đi được mươi bước, Quý vội reo lên: “Bạn Hùng nói không đúng, quý nhát phải là vàng. Mọi người chẳng thường bảo quý như vàng là gì? Có vàng là có tiền, có tiền sẽ mua được lúa gạo”. Nam vội tiếp ngay: “Qúy nhất là thì giờ.Thầy giáo thường nói thì giờ quý hơn vàng bạc, có thì giờ mới làm ra được lúa gạo vàng bạc!” Cuộc tranh luận sôi nổi, người nào cũng có lí, không ai chịu ai. Hôm sau ba bạn đến nhờ thầy giáo phân giải. Nghe xong thầy giáo mĩm cười rồi nói: -Lúa gạo quý vì ta phải đỗ bao mồ hôi mới làm ra được. Vàng cũng quý vì nó rất đắt và hiếm. Còn thì giờ đi qua không lấy lại được, đáng quý lắm .Nhưng lúa gạo, vàng bạc, thì giờ vẫn chưa phải là quý nhất. Ai làm ra lúa gạo, vàng bạc, ai biết dùng thì giờ? Đó chính là người lao động các em ạ. Không có người lao động thì không có lúa gạo, không có vàng bạc nghĩa là mọi thứ dều không có, và thì giờ cũng trôi qua một cách vô vị mà thôi. ( Trinh Mạnh) Câu hỏi: 1)Xác định yếu tố nghị luận trong văn bản trên?. 2) Cho biết vai trò của yếu tố nghị luận trong việc làm nổi bật nội dung văn bản trên? Bài tập 2.Thông qua hình thức và cách lập luận, hãy nhận xét về tính cách ( hoặc đời sống nội tâm ) của nhân vật trong đoạn trích sau : “ Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ? Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói ? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi !Cực nhục chưa , cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao ? Ai người ta chứa.Ai người ta buôn bán mấy.Suốt cả cái nước Việt Nam này, người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nướcLại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã ró cái cơ sự này chưa ?”... ( Kim Lân ) Bài tập 3. Viết một đoạn văn tự sự về chủ đề tình bạn có sử dụng yếu tố nghị luận. * Gợi ý: Cần lập luận để thấy được thế nào là bạn tốt ( bạn thân). Tiết 5-6:Thực hành tổng hợp. Bài tập 1. Đọc và xác định yếu tố miêu tả, miêu tả nội tâm và lập luận thể hiện trong văn bản sau: HAI MƯƠI NĂM SAU, ĐẢN VỀ THĂM MỘ MẸ Tôi vẫn nhớ như in cái ngày tồi tệ đó, cái ngày mà tôi biết được sự thật về cái chết của mẹ tôi, tôi đau đớn vô cùng. Tôi vùng bỏ chạy đi mặc cha tôi đang rơm rớm nước mắt kể lại bi kịch ngày ấy. Tôi cứ khóc và chạy mãi, chạy mãi. Rồi tôi lạc vào rừng. Một người tiều phu già không con đã cưu mang tôi đến tận bây giờ. Suốt bao nhiêu năm tháng, tôi không một lần về thăm cha và nỗi đau đớn uất hận cứ đeo bám lấy tôi. Thoắt cái, khi con thoi miệt mài thêu dệt những chuỗi ngày quạnh quẽ, kể từ ngày mẹ mất, hai mươi năm đã trôi qua. Tôi đã hai mươi ba tuổi, hai mươi ba cái xuân lặng lẽ đã đi qua cuộc đời tôi. Đứng trên thảm cỏ xanh, tôi hướng mắt nhìn về chốn quê nhà. Thấy bao la một vùng rộng khắp, tiếng xao xác của hàng cây, tiếng vi vu của làn gió, tiếng dập dềnh của dòng sông, tất cả như thôi thúc tôi trở về. Phải về thôi, ít ra là về thăm mộ mẹ! Vừa bước vào làng, tôi lặng lẽ chìm vào cõi nhớ: mới ngày nào kia, thảm cỏ tươi non mơn mởn, bầu trời rợp mát cánh chim; thế mà giờ đây: cỏ khô cằn, vàng úa, bầu trời u ám, heo hút trong làn gió se lạnh. Tôi bồi hồi tìm ngôi mộ thân quen. Nhiều cặp mắt tò mò nhìn tôi. Tôi muốn chào hỏi vì đó đều là những người làng mà tôi từng biết nhưng sao không thốt được nên lời. Họ nhìn tôi nhưng dường như không nhận ra tôi: -Anh từ đâu đến? Anh tìm ai chăng? Tôi đau đớn không trả lời mà quay vội đi để giấu hai hàng lệ: họ đã quên tôi thật rồi!Tôi lặng ngắm nhìn mộ mẹ, nhìn như muốn thu giữ lấy cho thoả nỗi mong nhớ bao năm qua. Một nấm mộ đơn sơ nhưng sạch sẽ. Một bình hoa còn tươi mới. Một bát nhang đã đầy. Cỏ xung quanh được giẫy gọn. Tôi biết đó là sự chăm sóc hương khói của cha tôi, nhưng lòng tôi sao vẫn cứ ngập nỗi oán hờn: Tôi ghét cha tôi. Làm sao có thể bù đắp được sự thiếu hụt tình mẹ trong tôi? Làm sao có thể xoá hết tội lỗi của ông ta đối với mẹ? Làm sao mẹ tôi có thể sống lại?... Đột nhiên, một làn gió nhẹ thoáng qua mang theo mùi hương dịu nhẹ trong tiếng lá khô xào xạc mùi hương quen thuộc nhưng xa xămmuì hương trên áo mẹLòng tôi chợt dịu lại, nỗi oán hờn dần lắng xuống. Tôi ngước nhìn bầu trời, một khung trời trong xanh, không nắng chói chang, không vương chút bụi. Cảnh vật quanh tôi như bình yên, như thanh thản. Đằng xa, tôi thấy một cụ già tóc bạc, khuôn mặt phảng phất nỗi buồn khổ xót xa, duy đôi mắt nhìn ai cũng chan hoà cởi mở. Cầm trên tay một bó hoa cúc tím, một thẻ nhang thơm, ông từ từ đi về phía tôi. Tôi nhìn như thôi miên vào bộ quần áo nâu bạc đã sờn, nhìn đôi má hóp, nhìn dáng đi nặng trĩu nỗi niềm. Tôi chợt sững người: đó chính là cha tôi. Mới hơn mười năm mà ông đã tiều tuỵ đến như vậy sao? Tôi cứ đứng ngây ra, không ôm chầm lấy cha, không mừng rỡ hỏi han như bao người con lâu ngày gặp cha. Tôi nhìn ông bằng ánh mắt xa lạ. Hình như ông đã nhận ra tôi. Nét mặt rạng rỡ, ông quýnh quáng vội vàng chạy lại, giọng run run: “Đản đấy hả con? Con đã về đấy ư?” Tôi khẽ lách sang một bên, cố lấy giọng lạnh lùng: “Ông còn nhớ tôi à? Thế nhưng tôi lại chẳng nhớ ông đâu. Làm sao tôi có thể nhớ đến người đã bức tử mẹ tôi. Tôi tôi ghét ông.” Ông cúi đầu, nín lặng. Nước mắt giàn giụa, bàn tay già nua run rẩy năm chặt lấy tay tôi: -“Con ơi, cha không trách con đâu.Tất cả là tại cha, tại cái tính đa nghi độc đoán của cha. Cha ân hận lắm, con ơi!” Tôi không trả lời. Đột nhiên tôi nhận ra chiếc hoa vàng trên áo ông ta - kỷ vật của mẹ tôi. Ông vẫn còn giữ ư? Vẫn mang lấy tình yêu mẹ tôi bên mình ư? Tôi lại nhìn vào mắt ông. Ánh mắt già nua như đau đớn, như chờ đợi, như khẩn cầu. Nước mắt chợt tràn ra, không kìm được, tôi ôm chầm lấy ông và gọi lớn: “Cha!”.Tiếng “cha” của bao nhiêu năm nghẹn cứng, tiếng cha của bao nhiêu năm oán hờn. Trái tim tôi như mềm ra, đập liên hồi, trái tim đã lại mở rộng khoan dung. Tôi dìu cha ngồi xuống trước mộ mẹ. Làn gió khi nãy lại thoảng qua, bao trùm lấy cha con tôi ấm áp, thân mật. Dù không ai nói gì, cha và tôi nhìn nhau. Cả hai đều biết: mẹ tôi đã về. Cha và tôi ngồi đó, rất lâu. Làn gió kia cũng ở bên thoảng dịu dàng thân thiết. Tôi cảm thấy tâm hồn chợt bình an và thanh thản. Sao phải cứ mãi kiếm tìm, sao phải cứ mãi trách hờn. Chẳng phải là gia đình tôi đang đoàn tụ đó sao? (Thu Hương) Bài tập 2 : Kể lại một câu chuyện có nội dung như ý thơ sau . Mỗi lần ngã là một lần bớt dại Để thêm khôn một chút nữa trong người. ( Tố Hữu ) * Gợi ý : Nên lựa chọn những câu chuyện có nội dung thể hiện một lỗi lầm đáng tiếc đã gây hại cho người khác, hoặc có thể chọn cốt truyện kể lại một sự thất bại của bản thân em ( trong học tập, trong cuộc sống ) do chính thói xấu của em gây ra ( chủ quan, ham chơi, kiêu căng, tư tưởng ganh đua với bạn..) Cần sử dụng ngôn ngữ độc thoại thể hiện nội tâm ( hối hận, tự trách mình ) và yếu tố nghị luận. Bài tập 3 . Kể 1 câu chuyện có nội dung như lời kết trong một bài ca dao : “ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn “ * Gợi ý : Cần chọn cốt truyện sâu sắc , hợp lí. Nhân vật chính phải là người có hoàn cảnh éo le, đặc biệt, rất dễ bị sa ngã, hư hỏng, “gần bùn “. Nhưng chính trong hoàn cảnh ấy, nhân vật đã có nghị lực, cố gắng vượt lên trên hoàn cảnh để sống tốt, có ích, bảo vệ được nhân phẩm của chính mình “Chẳng hôi tanh mùi bùn”. Tất nhiên, để vượt qua hoàn cảnh ấy, nhân vật phải có những đấu tranh quyết liệt, phức tạp, có lúc tưởng như phải chùn bướcCần đưa thêm một số nhân vật theo hai hướng : nhân vật xấu ( tạo môi trường xấu ) và nhân vật tốt (động viên, giúp nhân vật chính thêm niềm tin và nghị lực) . Các thao tác hỗ trợ là : miêu tả ( chân dung , hành động, nội tâm ), lập luận ( trong lời độc thoại nội tâm ) Kiểm tra 15’ Nội dung kiểm tra: Viết đoạn văn trự sự có sử dụng yếu tố miêu tả nội tâm hoặc nghị luận.
Tài liệu đính kèm: