Văn học là bộ phận tinh tế nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng v¬ươn tới các giá trị “chân, thiện, mỹ” của con người. Nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp văn học là sáng tạo những tác phẩm có giá trị cao về t¬ư tưởng nội dung và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ sâu sắc, có ý thức giáo dục, bồi dưỡng tinh thần, tình cảm, nhân cách và bản lĩnh cho các thế hệ công dân của đất n¬ước.
Trong hệ thống giáo dục phổ thông, môn văn có một vị trí quan trọng cả về hai mặt: “Bồi d¬ưỡng văn hóa, khoa học, kỹ thuật”. Và “Giáo dục lý tư¬ởng cách mạng, đạo đức xã hội”. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật thì ph¬ương pháp luận của khoa học căn bản có những đổi mới. Việc đổi mới sách giáo khoa ngữ văn THCS nhằm giúp học sinh hình thành, phát triển năng lực chủ yếu: năng lực hành động, năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp, năng lực tự khẳng định. Đồng thời phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Ở bộ môn Ngữ văn thời l¬ượng giành cho việc giảng dạy tác phẩm văn chư¬ơng là tương đối lớn. Trong số thời l¬ượng ấy, số tiết dạy văn học Trung đại cũng chiếm một phần không nhỏ, đ¬ược tìm hiểu ở toàn cấp học. Do đó việc nắm đ¬ược mối quan hệ giữa giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học trung đại là vô cùng cần thiết.
PHÒNG GD- ĐT HUYỆN QUANG BÌNH TRƯỜNG THCS TÂN NAM ************ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM "KINH NGHIỆM DẠY TỐT PHẦN VĂN HỌC TRUNG ĐAỊ Ở LỚP 9 GIÁO VIÊN: BÙI MINH TƯỞNG NĂM HỌC : 2012 - 2013 Mục lục. Phần Nội dung Trang Mở đầu 1 Lí do chọn đề tài 4 2 Mục đích nghiên cứu 4 3 Nhiệm vụ nghiên cứu 5 4 Phạm vi nghiên cứu 5 5 Phương pháp nghiên cứu 6 Nội dung I Cơ sở lí luận 7 II Thực trạng 7 III Giải pháp 8 1 Đặc trưng của văn học trung đại 8 2 Chuẩn bị tõm thế cho học sinh 13 3 Định hướng của giáo viên 15 4 Tổ chức hoạt động ngoại khoá văn học 22 5 Tích hợp kiến thức 22 IV Kết quả thực hiện 24 V Kết luận và khuyến nghị 24 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài : Văn học là bộ phận tinh tế nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng vươn tới các giá trị “chân, thiện, mỹ” của con người. Nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp văn học là sáng tạo những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng nội dung và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ sâu sắc, có ý thức giáo dục, bồi dưỡng tinh thần, tình cảm, nhân cách và bản lĩnh cho các thế hệ công dân của đất nước. Trong hệ thống giáo dục phổ thông, môn văn có một vị trí quan trọng cả về hai mặt: “Bồi dưỡng văn hóa, khoa học, kỹ thuật”. Và “Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức xã hội”. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật thì phương pháp luận của khoa học căn bản có những đổi mới. Việc đổi mới sách giáo khoa ngữ văn THCS nhằm giúp học sinh hình thành, phát triển năng lực chủ yếu: năng lực hành động, năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp, năng lực tự khẳng định. Đồng thời phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh. Ở bộ môn Ngữ văn thời lượng giành cho việc giảng dạy tác phẩm văn chương là tương đối lớn. Trong số thời lượng ấy, số tiết dạy văn học Trung đại cũng chiếm một phần không nhỏ, được tìm hiểu ở toàn cấp học. Do đó việc nắm được mối quan hệ giữa giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học trung đại là vô cùng cần thiết. Trong quá trình dạy học tôi nhận thấy: số đông học sinh không mấy hứng thú học văn. Đặc biệt là văn học trung đại. Không chỉ bởi rào cản ngôn ngữ, văn tự, khoảng cách về văn hóa giữa quá khứ và hiện tại mà còn khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu tham khảo, đặc biệt là sách tuyển chọn những tác phẩm nguyên gốc. Đứng trước tình hình nền văn hóa dân tộc có nguy cơ mai một, là một giáo viên, nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp học sinh có được hứng thú trong giờ học văn, giúp các em đồng cảm với nhân vật với tác giả, từ đó cảm thông và yêu quý họ. Xây dựng hứng thú, thái độ nghiêm túc, khoa học trong việc học văn; có ý thức và biết cách ứng xử trong gia đình, trong trường học và ngoài xã hội một cách có văn hóa; khinh ghét những cái xấu xa, độc ác, giả dối được phản ánh trong các tác phẩm văn học. Đồng thời giúp các em giữ gìn được nền văn hóa dân tộc mà người nghệ sĩ đã gửi gắm lại qua nhiều thế hệ. Đó là lí do tôi chọn đề tài này làm nội dung nghiên cứu và thực hiện trong suốt những năm giảng dạy lớp 9. 2. Mục đích nghiên cứu Việc dạy và học văn học Trung đại Việt Nam đến nay vẫn còn là nỗi khốn khổ, gây nhiều khó khăn, phiền toái cho người dạy lẫn người học. Hiểu được những tác phẩm đó chẳng phải là chuyện dễ dàng gì; truyền thụ cái hay, cái đẹp của nó cho người học hiểu được lại càng khó khăn gấp bội phần. Vấn đề có nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là rào cản ngôn ngữ, bởi những tác phẩm ấy đều viết bằng ngôn ngữ Hán văn cổ hay chữ Nôm có phần xa lạ với ngôn ngữ Tiếng Việt hiện đại hôm nay. Thêm vào đó là người tiếp nhận văn bản dù muốn hay không phải có kiến thức chắc chắn, ít nhiều phải hiểu rõ môi trường văn hoá trung đại, tư tưởng ý thức hệ chính thống thời trung đại, điển cố điển tích, thể loại văn học v.v..Vậy mà đối tượng tiếp nhận ở đây lại là học sinh THCS, vốn sống ít ỏi. khả năng ngôn ngữ chưa hoàn thiện, vậy làm sao để cảm được hết cái hay cái đẹp của văn học trung đại mang tính bác học? Chỉ bấy nhiêu thứ cũng đủ làm cho người dạy lẫn người học đau đầu, mệt trí thì thử hỏi làm sao mà lắng lòng, mà bình tâm để cảm nhận cho được cái tinh hoa cùng vẻ đẹp của văn chương qua cách biểu đạt “ngôn tại ý ngoại” của các bậc thi nhân tiền bối đã gởi gắm trong từng câu chữ. Những trăn trở này xin được mạo muội ghi lại đây để đồng nghiệp cùng suy nghĩ và góp ý, với thiện tâm là làm sao giúp cho việc dạy và học các tác phẩm Văn học Trung đại Việt Nam tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài này có ba nhiệm vụ sau : Nhiệm vụ 1: Ý nghĩa, tầm quan trọng của dạy tốt phần văn học trung đại ở lớp 9. Nhiệm vụ 2: Thực trạng dạy và học Văn học Trung đại ở cơ sở. Nhiệm vụ 3: Một số kinh nghiệm để dạy tốt phần Văn học Trung đại ở lớp 9. 4. Phạm vi nghiên cứu Cả một giai đoạn lịch sử được phản ánh trong văn học suốt 400 năm( Từ TK XVI - TK XIX) với bao thăng trầm được học trong nửa học kì I lớp 9. Từ tình yêu nước, ý chí dân tộc cho đến ý thức về thân phận con người, đặc biệt là thân phận người phụ nữ được Văn học đề cập. Vậy phải dạy như thế nào cho đúng để các em hiểu và hiểu đúng về thời đại và con người cùng giá trị đích thực của các tác phẩm giai đoạn nầy? Phạm vi nghiên cứu của đề tài này tập trung vào học sinh và các nội dung đó trong tác phẩm được dạy ở lớp 9. 5. Phương pháp nghiên cứu : Phương pháp chủ yếu nắm bắt tình hình thực tiễn, vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy hàng năm . Cụ thể: - Tìm hiểu bằng cách đọc, nghiên cứu tài liệu về phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học trung đại - Tham khảo ý kiến cũng như phương pháp giảng dạy các tác phẩm của đồng nghiệp thông qua các buổi họp chuyên đề, dự giờ thăm lớp. - Lấy thực nghiệm việc giảng dạy Văn học Trung đại ở trên lớp, đánh giá kết quả nhận thức của học sinh và rút kinh nghiệm. NỘI DUNG I- Cơ sở lí luận Văn học trung đại ( còn gọi là văn học viết thời phong kiến hoặc văn học cổ), là phần chương trình môn văn lớp 9 suốt học kì I . Đây là phần khó đối với cả học sinh và giáo viên . Giáo viên ít kiến thức thì dễ hiểu sai , dạy sai . Với học sinh , mọi kiến thức đều xa lạ , từ quan hệ xã hội đến quan điểm nghệ thuật , tư tưởng tác giả , phong cách nghệ thuật ,ngôn ngữ ....Tất cả hầu như lần đầu tiên các em mới biết đến . Đã thế, mười thế kỷ văn chương phong phú, mỗi thế kỷ chỉ chọn lọc một, hai bài . Những bước nhảy cóc từ bài nọ sang bài kia cách xa hàng trăm năm khiến cho các em khó mà cảm nhận từng bài cũng như quá trình phát triển của văn chương. Những tác phẩm được chọn dạy ở đây là những tác phẩm đặc sắc nhất của Văn học trung đại giai đoạn này. Nội dung khá gần gũi với các em và chủ yếu là thơ nên các em dễ học thuộc. Nhưng để tiếp nhận lại chẳng dễ chút nào bởi cách diễn đạt, quan niệm, cách giải quyết lại khác hẳn so với thời đại các em đang sống. II. Thực trạng Sau nhiều năm giảng dạy ở Ngữ văn 9, tôi thấy thực tế xảy ra là: - Học sinh khó cảm thụ và phân tích tác phẩm Văn học trung đại - Khả năng vận dụng kiến thức về tác giả , tác phẩm vào kỹ năng làm bài văn nghị luận còn hạn chế . - Sách tham khảo, điều kiện tìm đọc trọn vẹn các tác phẩm là rất ít. Mà hầu như các em chỉ được học trích đoạn nên đôi khi hiểu thiếu trọn vẹn, mơ hồ. - Bố mẹ, người thân đa phần là nông dân, vốn hiểu biết về văn học học cổ rất hạn chế. Học sinh có thắc mắc khó có thể được chia sẻ tỉ mỉ. Từ đó học sinh ngại học , ngại đọc các tác phẩm văn học dẫn đến chất lượng bài viết chưa cao. Hơn nữa đứng trước tình hình nền văn hóa dân tộc có nguy cơ mai một, là một giáo viên, nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp học sinh có được hứng thú trong giờ học văn, giúp các em đồng cảm với nhân vật với tác giả, từ đó cảm thông và yêu quý họ. Xây dựng hứng thú, thái độ nghiêm túc, khoa học trong việc học văn; có ý thức và biết cách ứng xử trong gia đình, trong trường học và ngoài xã hội một cách có văn hóa; khinh ghét những cái xấu xa, độc ác, giả dối được phản ánh trong các tác phẩm văn học. Đồng thời giúp các em giữ gìn được nền văn hóa dân tộc mà người nghệ sĩ đã gửi gắm lại qua nhiều thế hệ. * Số liệu điều tra trước khi thực hiện : Sau khi học sinh học xong văn bản " Chuyện người con gái Nam Xương", tôi cho các em làm bài kiểm tra. Đề bài : Cảm nghĩ của em về vẻ đẹp và số phận oan nghiệt của nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ ? Kết quả cụ thể như sau: Lớp 9B Kết quả Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng 5 12 15 8 Đa số các em nêu được cảm nghĩ của mình về nhân vật nhưng lí giải chưa thực sự thấu đáo và thiếu tính thuyết phục. Tất cả những nhận xét chỉ dừng lại theo hướng cảm tính, đôi bài còn lí giải mang khuynh hướng xã hội học hiện đại. Từ thực tế đó, tôi suy nghĩ và mạnh dạn áp dụng một số giải pháp sau. III - Giải pháp 1 . Muốn dạy tốt, bản thân người giáo viên phải hiểu kĩ đặc trưng của văn học trung đại. 1.1Về các giai đoạn phát triển: Chặng 1: (TK X - hết TK XIV) Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc: đất nước độc lập, nhà nước phong kiến Việt Nam hình thành và phát triển. Từ đây bắt đầu một giai đoạn hào hùng với những chiến công vô cùng hiển hách của các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lí, Trần. Văn học viết Việt Nam hình thành, TK X có sự xuất hiện của văn học viết chữ Hán và đến TK XIII đấnh dấu sự ra đời của văn học viết bằng chữ Nôm. Bên cạnh đó văn học dân gian vẫn tồn tại và phát triển song song với văn học viết. Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng yêu nước với âm hưởng hào hùng, đặc biệt là giai đoạn nhà Trần với hào khí Đông A sục sôi. Thời kì này có sự xuất hiện của nhiều thể loại văn học như văn nghị luận (chiếu, hịch), văn xuôi lịch sử (Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu) và thơ. Do tư duy nguyên hợp nên văn học giai đoạn này có hiện tượng văn-sử-triết bất phân. Văn học viết bằng chữ Hán là chủ đạo, văn học viết bằng chữ Nôm chưa có thành tựu gì Chặng 2: (TK XV - hết TK XVII) TK XV văn học viết còn kế thừa được cảm hứng yêu nước và âm hưởng còn sót lại của hào khí Đông A. Dần dần văn học Việt Nam chuyển sang cảm hứng thế sự, đi vào chuyện đời, chuyện người, phê phán các tệ nạn xã hội, sự suy thoái về mặt đạo đức. Văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm đều đạt được nhiều thành tựu. Thơ Nôm , văn chính luận có sự phát triển tột bậc có nhiều thành tựu lớn qua sáng tác của Nguyễn Trãi. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của văn xuôi tự sự (Truyền kì mạn lục).. Chặng 3: (đầu TK XVIII - hết nửa đầu TK XIX) Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi mà đỉnh cao là khởi nghia Tây Sơn. Vua Quang Trung lên ngôi. Rồi triều đại Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh khôi phục lại vương triều phong kiến chuyên chế(1802-1945). Đây được xem là giai đoạn ... , 2. Khái quát về thành tựu thể ký trong văn học Việt Nam: 2.1. Ký trong văn học trung đại: Văn học trung đại Việt Nam đa dạng về thể loại nhưng ký là loại hình phức tạp nhất trong văn xuôi tự sự thời trung đại. Ký là một bộ phận cùng với truyện ngắn và tiểu thuyết chương hồi hợp thành văn xuôi tự sự. Cũng như truyện ngắn và tiểu thuyết chương hồi, ký chủ yếu được viết bằng chữ Hán dưới hình thức các thể văn Trung Hoa. Trong đời sống văn học nước ta, truyền thống ghi chép về “cái có thật” đã phát triển rất sớm, các tác phẩm ký khá nổi tiếng xuất hiện trong thời kỳ đầu có “Thanh hư động ký” (Nguyễn Phi Khanh), “Lam Sơn thực lục” (Nguyễn Trãi), “Ô châu cận lục” (Dương Văn An), “Bắc Sứ thông lục” (Lê Quý Đôn), “Nam triều công nghiệp diễn chí” (Nguyễn Khoa Chiêm), “Thượng Kinh ký sự” (Lê Hữu Trác), “Hoàng Lê nhất thống chí” (Ngô gia văn phái), “Vũ Trung tuỳ bút” (Phạm Đình Hổ) Sự ra đời của một loạt tác phẩm ký ở giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX đã đánh dấu một bước phát triển của văn xuôi tự sự chữ Hán ở nước ta. 2.2. Ký trong văn học hiện đại: Từ đầu thế kỷ XX, trong không khí hiện đại hoá của nền văn học dân tộc, văn xuôi tiếng Việt phát triển mau lẹ, phong phú với một hệ thống thể loại hoàn chỉnh. Trong đó, các sáng tác thuộc các thể loại ký cũng đa dạng hơn gồm: phóng sự, ký sự, tuỳ bút, Ở những năm đầu thế kỷ, nổi bật là cây bút Tản Đà với những tác phẩm văn xuôi nghiêng về giãi bày cảm xúc, bộc lộ nỗi niềm với cái nhìn riêng về nhân sinh, thế sự. Tiêu biểu là các bài “Tình cảm”,” Kỷ niệm hái hoa đào”, “Giải sầu”, “Luận cô Kiều”, “Xem Liêu Trai”, được xem là những bài ký giàu chất trữ tình, tuy vẫn phảng phất điệu văn biền ngẫu. Những tác phẩm văn xuôi của Tản Đà là dấu hiệu báo trước khuynh hướng ký trữ tình của văn học Việt Nam sau này. Thời kỳ văn học 1930 – 1945 được đánh giá là một trong những đỉnh cao của văn học dân tộc. Bên cạnh sự nở rộ của Thơ Mới, tiểu thuyết, truyện ngắn các tác phẩm thuộc thể ký cũng gặt hái được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, khẳng định sự lớn mạnh của thể loại. Trong các thể văn xuôi giai đoạn 1945 – 1954, ký phát triển mạnh hơn cả, nhất là ký sự và tuỳ bút. Ký có sự xâm nhập vào các thể văn học khác khiến các tác phẩm thuộc thể truyện ngắn, tiểu thuyết đậm đặc các sự kiện đời sống. Các “cây kí” đã dũng cảm xông xáo vào những chiến trường ác liệt, bám sát các mũi nhọn chiến đấu, đến với các chiến dịch, các mặt trận để tái hiện xác thực bức tranh đời sống chiến trường. Có thể kể đến các tác phẩm như: “Trận phố Ràng”, “Một cuộc chuẩn bị” của Trần Đăng; “Ký sự Cao Lạng” của Nguyễn Huy Tưởng; “Ngược dòng sông Thao” của Tô Hoài; “Chặt gọng kìm đường số Bốn” của Hoàng Lộc Hay hàng loạt tuỳ bút: “Đường vui”, “Tình chiến dịch”, “Tuỳ bút kháng chiến” của Nguyễn Tuân. Xu hướng “dân chủ hoá” đã giúp ký thâm nhập vào muôn mặt của cuộc sống, mở rộng phạm vi phản ánh, các nhà văn công khai bày tỏ thái độ, cách nhìn, cách đánh giá đối với hiện thực. Đặc biệt người viết ký có cơ hội để bộc lộ vai trò của chủ thể sáng tạo, khẳng định được dấu ấn của riêng mình. 3. Những giải pháp về việc giảng dạy kí trong nhà trường phổ thông 3.1. Về phương pháp Trong nhà trường, tác phẩm văn học đến với học sinh không phải bằng con đường tự do lựa chọn như đối với bạn đọc ngoài đời. Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, học sinh là những bạn đọc còn hạn chế vể vốn sống, kinh nghiệm thực tiễn nhưng lại có khả năng rung động và có xúc cảm đặc biệt với tác phẩm văn học. Vì vậy, vai trò của người giáo viên văn học là phải bổ sung, bồi dưỡng vốn sống, phát triển các năng lực cảm thụ cho học sinh và hướng dẫn họ đến với tác phẩm văn học một cách đúng nhất, gần nhất. Để làm được nhiệm vụ cao quí và nặng nề này, người giáo viên cần có những phương pháp thích hợp, đồng thời phải biết cách sử dụng, phối hợp các phương pháp phân tích tác phẩm một cách nhuần nhuyễn nhất, nhằm giúp học sinh vừa nắm bắt tri thức, vừa nắm bắt phương pháp học tập, nghiên cứu. 3.1.1. Dạy tác phẩm theo loại thể Chú ý đến đặc trưng thể loại vừa là một yêu cầu vừa là một nguyên tắc của quá trình phân tích và giảng dạy tác phẩm văn học. Chú ý đến đặc trưng thể loại kí tức là trong quá trình phân tích, giáo viên giúp học sinh tận dụng con đường theo bước tác giả kết hợp với đọc diễn cảm, kết hợp với giảng bình và câu hỏi hình dung, tưởng tượng, tái hiện. Với thể loại kí, khi phân tích tác phẩm chúng ta nên tận dụng con đường theo bước tác giả, đọc kĩ những cảm nhận tinh tường trước các vấn đề sự kiện mà tác giả ghi lại. Nên dùng những câu hỏi chi tiết nghệ thuật, tập trung vào “đọc diễn cảm” những đoạn giàu thông tin nghệ thuật: chân thực, phải đạo mà cũng đầy chất hài hước. 3.1.2. Rèn luyện phương pháp đọc văn cho học sinh Vấn đề này liên quan đến nhiệm vụ giảng dạy môn Văn trong nhà trường. Để đạt được mục tiêu giảng dạy, nhiệm vụ của môn Văn, cụ thể là của người giáo viên văn học, ngoài việc cung cấp những tri thức cơ bản cần phải giúp học sinh có được kỹ năng, năng lực và phương pháp tự học tốt nhất. Muốn vậy, trước hết, cần hướng dẫn để học sinh nắm được phương pháp đọc hiểu và sử dụng nó một cách hiệu quả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Bởi vì đây là phương pháp mà học sinh có thể sử dụng để học tập, nghiên cứu và làm việc trong suốt cuộc đời. Đọc văn chương là quá trình thâm nhập và tháo gỡ mã của các kí hiệu văn chương trong văn bản, là việc tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thông qua các cấu trúc của văn bản, là quá trình phát hiện và sáng tạo Trên tinh thần đó, với môn Văn, việc dạy học sinh biết cách đọc, cách phân tích và tiếp nhận một tác phẩm văn học là việc làm cần thiết và quan trọng. 3.1.3. Phương pháp trực quan Không phải chỉ ở bậc tiểu học và THCS mới cần sử dụng phương pháp và dụng cụ trực quan, học sinh THPT tuy sắp đến tuổi trưởng thành nhưng vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm, vốn sống thực tế, nhất là trong điều kiện đời sống xã hội hiện nay. (Hầu như, việc học tập ở lớp và làm bài tập tại nhà đã chiếm gần hết thời gian của học sinh. Vì thế, những dụng cụ trực quan rất có ích cho việc hình dung, tưởng tượng, tái hiện không khí, bối cảnh và tạo rung cảm cho học sinh trong quá trình phân tích tác phẩm. Việc sử dụng dụng cụ trực quan không phải là việc làm tùy tiện mà đòi hỏi người giáo viên một dự nhạy cảm và đầu tư cao. 3.1.4. Thử nghiệm phương pháp mới – lấy học sinh làm trung tâm Phương pháp “lấy học sinh làm trung tâm” thực chất là phương pháp đề cao, chú trọng vai trò của học sinh trong quá trình dạy học. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Phương pháp này là cực kỳ quý báu bởi lẽ nó giúp cho người học sau khi ra đời vẫn muốn và vẫn có thể tiếp tục tự học mãi.” Trong thực tế, phương pháp này đã được đề xướng và áp dụng vào nhà trường THPT từ hơn mười năm trước. Nhưng do chưa nhận thức được một cách đầy đủ và khoa học vể nó nên việc áp dụng còn mang tính cá nhân, chắp vá, chưa có hiệu quả. Nhóm đề tài cho rằng, một hệ thống câu hỏi gợi mở tìm hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại (phần chuẩn bị bài của học sinh và quá trình phân tích tác phẩm) cũng là một giải pháp tốt cho việc bước đầu sử dụng phương pháp này vào quá trình giảng dạy tác phẩm theo đặc trưng thể loại. 3.2. Các hoạt động ngoại khóa Các hình thức của hoạt động ngoại khóa và khả năng giáo dục của nó là điều không ai phủ nhận. Do đó, cần sớm có kế hoạch áp dụng hình thức này vào quá trình dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông. Thông qua hoạt động ngoại khóa văn học, học sinh được phát triển cân đối về trí tuệ, đạo đức, thể dục và thẩm mỹ. Với các tác phẩm kí , có thể tổ chức thuyết trình, đọc và giới thiệu các tác phẩm ký khác của cùng một tác giả hoặc của một số tác giả khác cùng giai đoạn văn học. Cũng có thể tổ chức cho học sinh làm báo tường, tham quan, xem phim tài liệu, 4. Một vài kiến nghị xung quanh việc giảng dạy môn Văn trong nhà trường trung học phổ thông, từ thực trạng giảng dạy kí 4.1. Về chương trình và sách giáo khoa Tuy sách giáo khoa và chương trình môn Văn đã có nhiều cải tiến và hợp lý hơn, nhưng so với sự thay đổi và phát triển của đất nước ta hiện nay thì vẫn còn nhiều điều cần được xem xét, thay đổi. Mặt khác, quan niệm về thể loại và định hướng tiếp cận tác phẩm kí trong sách giáo khoa và sách giáo viên (đều do Bộ Giáo dục ấn hành năm 2007) cũng chưa được trình bày một cách thật sáng rõ và nhất quán. Điều bất cập này chắc chắn có ảnh hưởng không nhỏ, gây nên khó khăn trước hết đối với người giáo viên khi chuẩn bị bài giảng. 4.2. Cần thay đổi cách quản lý, cách đánh giá năng lực giáo viên và có giải pháp đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên hiện nay ở các trường THPT thường được dựa vào kết quả thi cử của học sinh, hoặc dựa vào một vài giờ thao giảng. Do đó, trong nhiều giờ giảng văn, giáo viên hay giảng dạy theo hướng nhồi nhét, cung cấp kiến thức có sẵn Mục đích là để học sinh có thể làm được bài khi đi thi hoặc khi đăng ký thao giảng và kết quả là bài giảng, tiết giảng đó được đánh giá tốt, nhưng giáo viên không còn thời gian dành cho những bài khác. 4.3. Cần thay đổi cách dạy và học không chỉ ở cấp phổ thông, mà quan trọng và cần thiết hơn hiện này là phương pháp dạy – học ở bậc Cao đẳng, Đại học KẾT LUẬN Vấn đề giảng dạy môn Văn nói chung, thể loại kí nói riêng trong nhà trường THPT hiện nay đang và luôn thu hút sự quan tâm của xã hội. Bởi vì, vấn đề này có liên quan không chỉ chất lượng của các giờ giảng văn mà còn liên quan đến mục tiêu của giáo dục. Người viết đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị có tính chất cá nhân nhằm góp phần vào giải quyết các vấn đề. Những giải pháp và kiến nghị mà người viết đã nêu hy vọng có thể phần nào giải quyết những tồn tại của việc dạy học văn nói chung ở trường THPT hiện nay. . Miêu tả nhân vật bằng bút pháp ớc lệ tợng trng. Trong văn thơ cổ, ngời ta thờng dùng các chuẩn mực có sẵn, có tính qui phạm, chữ nghĩa khuôn mẫu, dùng những hình ảnh thiên nhiên để miêu tả ngoại hình nhân vật. Những hình ảnh thiên nhiên này thờng tợng trng cho sự thanh cao, quý phái. Thông thờng, ngời xa lấy tứ quí về vật: Long - Ly - Qui - Phợng . Về cây : Tùng - Cúc - Trúc - Mai. Về ngời: Ng - Tiều - Canh - Mục. Nói đến mùa xuân thì không quên hoa đào, hoa mai, chim én. Nói đến mùa thu thì phải có sơng sa, lá ngô đồng rụng. Tả chàng trai là phải có mày râu. Tả cô gái thì nghĩ ngay đến cỏ bồ và cây liễu. Tả tráng sĩ thì dới nguyệt mài gơm.... Đối với Nguyễn Du, ông vừa tuân thủ vừa vợt qua tính khuôn mẫu có sẵn, vận dụng sáng tạo hệ thống hình ảnh thiên nhiên vào tác phẩm của mình. Tiêu biểu trong các đoạn trích học ở THCS bút pháp ớc lệ tợng trng đợc Nguyễn Du vận dụng miêu tả nhân vật Thúy Kiều, Thúy Vân (Chị em Thúy Kiều); Chuyên đề này, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm hai nhân vật mà Nguyễn Du yêu mến nữa là Kim Trọng và Từ Hải.
Tài liệu đính kèm: