Chuyên đề:
SỬ DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐẶC THÙ TRONG GIỜ HỌC VĂN
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Có thể nói rằng lịch sử phát triển của văn học cũng lâu đời như lịch sử phát triển của các ngành khoa học khác. Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng văn học như một phương tiện để truyền thụ kinh nghiệm, phản ánh đời sống của xã hội. Bất cứ dân tộc nào trên thế giới cũng coi văn học là sản phẩm tinh thần của dân tộc mình. Văn học gắn bó với đời sống của từng gia đình và xã hội. Chính vì lẽ đó mà trong nhà trường, môn văn học đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh.
Thế nhưng hiện nay phần lớn học sinh, đặc biệt là học sinh ở bậc THCS thường ngại khó trong việc học văn, thường coi giờ học văn ở trường là gượng ép, các em không chú tâm, không ham thích và không có sự đầu tư vào nội dung bài học, chỉ ngoại trừ một số em có năng khiếu, ham thích học văn.
Với tinh thần cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các môn học khác cũng như môn ngữ văn mà đặc biệt là các giờ học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và hoạt động dạy học của giáo viên.
Nhưng làm thế nào để giúp cho học sinh thấy được vai trò quan trọng của việc học văn trong nhà trường? Làm thế nào để lôi cuốn học sinh vào giờ học văn để các em có hứng thú hơn, đầu tư nhiều hơn, phát hiện ra những điều mới lạ từ một giờ học văn? Cũng như làm thế nào để vận dụng tinh thần cơ bản của việc đổi mới PPDH là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và hoạt động dạy học của giáo viên?
Từ những lí do trên và cũng là mục đích chính là nâng cao chất lượng giảng dạy tăng cường hiệu quả học tập của học sinh ở một giờ học văn, trong những năm gần đây tổ ngữ văn của trường chúng tôi luôn thảo luận và đưa ra những phương thức tối ưu để xây dựng một giờ học văn sinh động, có chất lượng và hiệu quả cao. Và theo chúng tôi: song song với việc vận dụng một số PPDH vào giờ học văn thì một vấn đề cũng không kém phần quan trọng đó là “ Sử dụng một số phương pháp dạy học đặc thù trong các giờ học văn”
Chuyên đề: SỬ DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐẶC THÙ TRONG GIỜ HỌC VĂN A. ĐẶT VẤN ĐỀ: Có thể nói rằng lịch sử phát triển của văn học cũng lâu đời như lịch sử phát triển của các ngành khoa học khác. Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng văn học như một phương tiện để truyền thụ kinh nghiệm, phản ánh đời sống của xã hội. Bất cứ dân tộc nào trên thế giới cũng coi văn học là sản phẩm tinh thần của dân tộc mình. Văn học gắn bó với đời sống của từng gia đình và xã hội. Chính vì lẽ đó mà trong nhà trường, môn văn học đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh. Thế nhưng hiện nay phần lớn học sinh, đặc biệt là học sinh ở bậc THCS thường ngại khó trong việc học văn, thường coi giờ học văn ở trường là gượng ép, các em không chú tâm, không ham thích và không có sự đầu tư vào nội dung bài học, chỉ ngoại trừ một số em có năng khiếu, ham thích học văn. Với tinh thần cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các môn học khác cũng như môn ngữ văn mà đặc biệt là các giờ học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và hoạt động dạy học của giáo viên. Nhưng làm thế nào để giúp cho học sinh thấy được vai trò quan trọng của việc học văn trong nhà trường? Làm thế nào để lôi cuốn học sinh vào giờ học văn để các em có hứng thú hơn, đầu tư nhiều hơn, phát hiện ra những điều mới lạ từ một giờ học văn? Cũng như làm thế nào để vận dụng tinh thần cơ bản của việc đổi mới PPDH là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và hoạt động dạy học của giáo viên? Từ những lí do trên và cũng là mục đích chính là nâng cao chất lượng giảng dạy tăng cường hiệu quả học tập của học sinh ở một giờ học văn, trong những năm gần đây tổ ngữ văn của trường chúng tôi luôn thảo luận và đưa ra những phương thức tối ưu để xây dựng một giờ học văn sinh động, có chất lượng và hiệu quả cao. Và theo chúng tôi: song song với việc vận dụng một số PPDH vào giờ học văn thì một vấn đề cũng không kém phần quan trọng đó là “ Sử dụng một số phương pháp dạy học đặc thù trong các giờ học văn” B.Giải quyết vấn đề: Như ta đều biết bốn phương pháp dạy học đặc trưng trong dạy văn là: đọc sáng tạo, tái hiện, giáo viên tìm và nghiên cứu. Đây là PPDH được gọi tên theo những hoạt động trong giờ học văn. Muốn tìm hiểu một văn bản văn học thì không thể không đọc và đọc sáng tạo; không thể không hình dung, tưởng tượng để tái hiện những gì văn bản cần đến; không thể không tìm hiểu, đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản. Song vấn đề không phải ở tên gọi của cái PPDH mà là ở chỗ vận dụng chúng như thế nào trong mỗi giờ học văn nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Ở đây chúng ta nói đến việc sử dụng ba PPDH đặc thù trong giờ học văn đó là: PP đọc sáng tạo, PP dùng lời có nghệ thuật và PP vấn đáp gợi tìm. Phương pháp đọc sáng tạo: 1.Bản chất: Đọc sáng tạo là một phương pháp rất quan trọng đối với hoạt động tiếp nhận văn bản bao gồm cả đọc, hiểu và cảm thụ. Hoạt động đọc sáng tạo không chỉ là sự đọc thuần túy mà còn bao gồm cả sự tổ chức hướng dẫn cho học sinh đọc có vận động kết hợp của tư duy lôgich, tư duy hình tượng, tình cảm, giọng đọc và thậm chí cả điệu bộ...Nhằm giúp học sinh có thể nhập vai tái tạo hình tượng nghệ thuật, hiểu tác giả, hiểu giá trị nội dung nghệ thuật của văn bản một cách chính xác... Qua đó rèn cho học sinh kĩ năng tiếp nhận và phê phán, kỹ năng vận dụng những điều đã học vào thực tiễn học tập cuộc sống. Điều tất yếu ở các giờ học văn là giúp học sinh đọc, hiểu và cảm thụ đúng giá trị của văn bản, thấy được mối quan hệ khắng khít giữa văn bản và cuộc sống, giữa nhà văn và người đọc. Đọc sáng tạo nhằm giúp học sinh tìm ra các lớp nghĩa hàm môn của các văn bản nghệ thuật, giúp học sinh hình thành các kỹ năng phân tích, đánh giá cảm thụ văn bản nghệ thuật và nghe nói đọc viết tiếng việt. Đọc sáng tạo là một trong những PPDH đặc thù của phân môn văn được vận dụng trong một quá trình tìm hiểu, khám phá tác phẩm và cả sau khi giờ học trên lớp đã kết thúc. 2.Qui trình: -Bước 1: Hướng dẫn đọc và tìm hiểu văn bản. -Bước 2: Hướng dẫn học sinh thực hành tìm hiểu mối quan hệ giao tiếp giữa tác giả và đối tượng được nói đến, giữa tác giả với nội dung giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp và đối tượng giao tiếp, mục đích giao tiếp trong văn bản và giữa tác giả với độc giả. -Bước 3: Hướng dẫn học sinh đánh giá mức độ lựa chọn phù hợp với cách lựa chộn ngôn ngữ hình ảnh với hoàn cảnh giao tiếp, nội dung và mục đích giao tiếp, hóa thân vào tác phẩm, nhân vật trong tác phẩm để tìm hiểu tâm tư, tình cảm, điều tác giả, nhân vật muốn nói trong tác phẩm. -Bước 4: Hướng dẫn học sinh rút ra những nhận định về giá trị nội dung và nghệ thuật tư tưởng chủ đề của văn bản. -Bước 5: Hướng dẫn học sinh thực hành vận dụng tạo lập một đoạn văn thể hiện những suy nghĩ của cá nhân về giá trị về tác giả của văn bản. 3.Ưu điểm: Đọc sáng tạo phát huy khả năng tiếp nhận văn bản bằng sự kết hợp cả tư duy lôgich với tư duy hình tượng, liên tưởng, tưởng tượng; giữa tiếp nhận bằng thính giác, thị giác và tổng hợp các giác quan giữa hình ảnh với biểu tượng và hình tượng văn học. -Tăng cường năng lực phân tích, bình giá cảm thụ văn bản nghệ thuật và nghe, nói, đọc, viết tiếng việt. -Phát huy thế mạnh của xúc cảm ngôn ngữ trong quá trình đọc văn. -Phát huy tích cực vốn sống, kinh nghiệm về nghệ thuật và sự trải nghiệm của cá nhân khi đọc văn. -Tạo cơ hội tiếp cận trực tiếp, cụ thể và thường xuyên với văn bản. 4.Nhược điểm: Phải phối hợp nhiều hình thức đọc, kỹ năng đọc trong quá trình đọc văn. 5.Một số lưu ý khi vận dụng: -Cần cân nhắc, phân phối thời lượng đọc văn trong quá trình dạy học với mục đích rõ ràng. -Không coi nhẹ hoặc đề cao tuyệt đối vai trò của một hình thức đọc nào mà phải vận dụng linh hoạt, phù hợp với nội dung văn bản, tránh nhàm chán, đơn điệu. -Đánh giá đúng mức tác dụng và đặc điểm của việc đọc diễn cảm. -Hướng vào đọc hiểu giá trị nội dung và ngệ thuật của văn bản. 6.Ví dụ minh họa: Vận dụng phương pháp đọc-hiểu trong dạy học cảm nhận bài thơ “ Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. -Bước 1: Hiểu bài thơ. Theo quy trình 5 bước-giáo viên hướng dẫn cho học sinh để cảm nhận được nội dung văn bản, giúp học sinh có thể nhập vai người lính lái xe trên tuyến đường Trường sơn để tái tạo lại hình tượng nghệ thuật của bài thơ đó là những anh lính lái xe Trường Sơn bằng giọng điệu đã thể hiện được thái độ hiên ngang. Bất chấp khó khăn và tinh thần lạc quan chiến đấu vì miền Nam phía trước và vì Tổ quốc thống nhất. II. Phương pháp dùng lời có nghệ thuật ( Còn gọi là phương pháp diễn giảng, phương pháp bình giảng, phương pháp thông báo, phương pháp truyền thụ). Cơ sở của phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật là dựa trên quá trình trí nhớ, ghi nhớ, tái hiện các thông tin từ giáo viên. 1.Bản chất: Đây là phương pháp mà người nói hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng các hình thức ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để chuyển tải những thông tin đã chuẩn bị sẵn, những suy nghĩ, những cảm xúc, hiểu biết cá nhân của mình tới người nghe ( qua cung cấp kiến thức, giải thích mối quan hệ nhân quả, khám phá, và sự giảng giải những khái niệm chung, quy luật, qua trình bày bằng phương tiện trực quan như bản đồ, tranh treo tường hoặc các phương tiện khác; qua biểu diễn thực hành phát âm, đọc diễn cảm một từ ngữ, đoạn văn, thơ...). Người nghe tiếp nhận hệ thông thông tin đó từ người nói qua nghe, nhìn, ghi nhớ và tái hiện thông tin tùy theo yêu cầu dạy học. Dùng lời nói có nghệ thuật là cách dạy truyền thống theo mô hình truyền thông tin một chiều, được sử dụng nhiều trong các giờ dạy học tác phẩm văn chương hay cung cấp kiến thức mới. 2.Qui trình thực hiện: -Bước 1: Chuẩn bị nội dung thông tin, các tài liệu và phương tiện dạy học hỗ trợ theo mục tiêu của bài giảng. -Bước 2: Giới thiệu nội dung thông tin ( mở đầu một cách hấp dẫn, giới thiệu sơ qua cấu trúc nội dung của thông tin). -Bước 3: Trình bày cụ thể nội dung theo một trình tự loogich ( kết hợp minh họa bằng các tài liệu, ví dụ, phương tiện ). -Bước 4: Tóm tắt lại toàn bộ nội dung thông tin ( Có thể sơ đồ hóa hoặc viết dàn ý ) nhấn mạnh các điểm trọng tâm và các mạch liên kết của bài học. 3.Ưu điểm: Có thể khắc phục được những hạn chế và khả năng tư duy phân tích, khái quát, tổng hợp của học sinh. -Chuyển tới học sinh một lượng thông tin lớn, có lôgich chặt chẽ, tiết kiệm thời gian, công sức tìm kiếm thông tin cho học sinh. -Có thể cung cấp cho học sinh những tri thức, kỹ năng ( với lời bình gọn gàng, gợi cảm và thuyết phục ) mà bản thân học sinh không thể ( hoặc rất khó khăn ) tự tìm tòi, khám phá hoặc tự cảm thụ thấu đáo. -Bảo đảm cân đối mối quan hệ giữa dung lượng kiến thức của bài học với quỹ thời gian cho phép. -Giáo viên có thể trực tiếp khơi dậy hứng thú, truyền niềm say mê định hướng tư tưởng tình cảm của học sinh. -Giáo viên có thể dễ dàng thay đổi cách nói, cách truyền đạt thông tin và nội dung thông tin cho phù hợp với học sinh. -Giáo viên không cần chuẩn bị nhiều ( nhất là những người có kinh nghiệm ). -Phù hợp với mô hình lớp học đông học sinh. 4. Hạn chế: -Thu được rất ít thông tin phản hồi từ người học. -Khả năng lưu giữ thông tin ít ( Phụ thuộc vào khả năng nghe và ghi nhớ thông tin của học sinh). -Hạn chế tính tích cực chủ động của học sinh khi tiếp nhận thông tin và sáng tạo. Học sinh thụ động tiếp nhận. -Không tạo điều kiện cho học sinh phát huy kỹ năng giao tiếp ( do giáo viên không lưu tâm đến việc học sinh cùng tham gia đối thoại). -Khả năng thu hút và duy trì sự tập trung của học sinh thấp, giờ học đơn điệu, nhàm chán. -Không phù hợp với kiểu bài hình thành kỹ năng : Đọc, nói, viết. 5.Một số lưu ý: *Với giáo viên. -Xác định rõ mục tiêu và nội dung bài học để lựa chọn nội dung nào, lúc nào sẽ dùng đến hình thức nào trong phương pháp dùng lời có nghệ thuật. -Đọc kỹ nội dung bài học và xây dựng cấu trúc bài giảng hợp lí ( xác định các bước dạy học: kế hoạch, phương pháp, dự kiến thời gian, phương tiện dạy học). -Có nghệ thuật và kĩ thuật thuyết trình chuẩn mực thuyết phục ( cao độ, cường độ, trường độ phù hợp lời nói rõ ràng, vào bài hấp dẫn, lời nói có biến đổi gây chú ý. Cách giải thích ngắn gọn, lôgich hài hước; nghệ thuật sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ ( điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, cách đi lại,...); nghệ thuật đưa ví dụ, tranh ảnh, phim minh họa...).Hạn chế thuyết giảng một chiều, cố gắng chuyển quá trình thuyết giảng của giáo viên kết hợp với trao đổi, đàm thoại ngắn giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh nhằm phát huy thế mạnh của học sinh tạo nên một sự “ cộng hưởng” trong tiếp nhận và cảm thụ . -Kết hợp quan sát và nắm bắt những phản hồi từ phía học sinh để điều chỉnh kịp thời nội dung và nghệ thuật thuyết trình. -Thuyết trình sử dụng các phương tiện dạy học ( tranh ảnh, biểu bảng, phim). -Lưu ý dạy học sinh cách tự học, tự chuẩn bị trước về nội dung học tập, sự tập trung chú ý, cách nghe, ghi, nhớ và tái hiện lại những điều đã nghe. 6. Ví dụ minh họa: Trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Khi tìm hiểu về hình ảnh những chiếc xe không kính hoặc hình ảnh những người chiến sĩ lái xe giáo viên có thể dừng lại để bình sâu hơn về hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính trong hồn thơ của Phạm Tiến Duật hay bình sâu hơn về tình thần yêu nước của những người lính lái xe Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ. -Bước 1: Giáo viên chuẩn bị nội dung thông tin về hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính trong hồn thơ của Phạm Tiến Duật và tinh thần yêu nước ý chí chiến đấu vì miền Nam của những người lính Trường Sơn. -Bước 2: Giới thiệu nội dung thông tin. Có thể mở đầu hấp dẫn từ việc học sinh phát hiện ra hình ảnh trần trụi của những chiếc xe không kính giáo viên bình: -Từ cảm nhận về người lính Trường Sơn qua những ngôn từ lời thơ giáo viên bình. -Bước 3: Trình bày nội dung thông tin theo một trình tự lôgich ( Giáo viên tóm tắt nội dung thông tin, nhấn mạnh các trọng tâm và các mạch liên kết). Từ hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính để làm nổi bật hình ảnh của những người lính lái xe Trường Sơn. III. Phương pháp vấn đáp gợi tìm và cảm nhận ý thơ: Là phương pháp được hình thành trên cơ sở quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh thông qua việc giáo viên và học sinh đặt ra những câu hỏi và tìm câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định. 1.Bản chất: Bản chất của phương pháp này là sử dụng một hệ thống câu hỏi để gợi cho học sinh tìm tòi, suy nghĩ nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Giáo viên thông qua trực tiếp đưa ra kiến thức mà hướng dẫn học sinh tư duy từng bước để tự hình thành kiến thức. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức có thể có các loại vấn đáp như: -Vấn đáp tái hiện: Dựa vào trí nhớ không cần suy luận, được sử dụng khi cần tái hiện, củng cố hoặc thiết lập mối quan hệ với những kiến thức đã học. -Vấn đáp giải thích minh họa ( nhằm làm sáng tỏ một vấn đề nào đó cần dẫn chứng minh họa ). -Vấn đáp tìm tòi ( Phát hiện, đàm thoại để tìm lời đáp cho những vấn đề chủ yếu về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thông qua việc tìm tòi, suy nghĩ và trả lời câu hỏi. Học sinh hiểu, thể hiện được những suy nghĩ, những ý tưởng và những khám phá về nội dung bài học. Sự thành công của phương pháp vấn đáp phụ thuộc vào hệ thống câu hỏi ( nội dung hỏi, cách hỏi, thời điểm hỏi và cách giáo viên hỗ trợ học sinh suy nghĩ, tìm tòi, mở rộng, đào sâu hay tổng kết, hệ thống hóa những thông tin mới trên cơ sở vận dụng những kinh nghiệm và vốn liếng đã tích lũy được. -Có nhiều câu hỏi vấn đáp được vận dụng và dạy học ngữ văn. +Câu hỏi dựa vào thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, so sánh liên tưởng, nguyên nhân, kết quả, khái quát. +Câu hỏi dựa vào mức độ nhận thức: Biết thông hiểu, vận dụng (thấp, cao) +Câu hỏi dựa vào mục đích dạy học: Tái hiện, phát triển, tư duy tổng kết, kiểm tra. 2.Qui trình thực hiện: -Bước 1; Chuẩn bị hệ thống câu hỏi, chuẩn bị các tư liệu và phương tiện dạy học hỗ trợ và định hướng cho học sinh chuẩn bị thông tin tham gia vấn đáp. -Bước 2: Giáo viên nêu vấn đề sẽ đưa ra vấn đáp. Giáo viên, học sinh nêu câu hỏi, HS suy nghĩ trả lời, các học sinh khác nhận xét và giáo viên bổ sung. -Bước 3: Giáo viên nhận xét và hệ thống hóa toàn bộ nội dung các vấn đề đã vấn đáp. 1.Ưu điểm: -Thu nhận tức thời nhiều thông tin phản hồi từ người học. -Điều khiển có hiệu quả hoạt động tư duy của học sinh: Kích thích khả năng tư duy học hỏi, sự tìm thông tin, kích thích tư duy độc lập của học sinh theo đúng hướng. -Giúp học sinh hiểu nội dung học tập ( không học vẹt). -Phát triển khả năng giao tiếp ( đặc biệt là kĩ năng trình bày những suy nghĩ của cá nhân trước tập thể. -Đánh giá mức độ nắm vững nội dung. Sự tiến bộ, dự đoán những khó khắn nảy sinh trong quá trình học tập của học sinh và đề xuất những giải pháp khắc phục kịp thời. -Có thể sử dụng linh hoạt các câu hỏi để phát triển nhiều kĩ năng ở học sinh. 4.Hạn chế: *Về phía giáo viên: -Chuẩn bị hệ thống câu hỏi công phu, mất nhiều thời gian. -Khó kiểm soát quá trình học tập của học sinh ( có nhiều tình huống bất ngờ trong câu trả lời và câu hỏi từ phía người học, giờ học để lệch hướng do câu hỏi vụn, không nhất quán). -Khó soạn và xây dựng đáp án cho câu hỏi mở ( vì phương án trả lời đa dạng). *Về phía học sinh: -Phụ thuộc vào sự dẫn dắt của giáo viên. -Hạn chế khả năng chủ động tự tìm ra mối liên hệ giữa kiến thức, kĩ năng cũ và kiến thức kĩ năng mới. -Mất nhiều thời gian học tập. -Dễ trở thành tranh luận tay đôi. -Ít học sinh được hỏi, được nói, số không được nói dễ mất hứng thú sẽ không tập trung. 5.Một số lưu ý: -Số lượng các câu hỏi, bài tập trong giờ học ngữ văn không nên quá nhiều, trán đặt những câu hỏi khai thác vào những chi tiết đơn giản dễ hiểu hay vụn vặt hoặc đi quá xa chuẩn yêu cầu cần đạt của bài học. -Chú trọng tới những năng lực thực sự của học sinh ( Khả năng tiếp nhận, cảm thụ: (Nghe, nói, đọc, viết) tạo điều kiện cho tất cả các học sinh đều được tham gia và đàm thoại. -Đặt câu hỏi cho cả lớp, dành thời gian cho học sinh suy nghĩ, nghe rồi chỉ định học sinh trả lời. -Yêu cầu những học sinh khác nghe, bổ sung nhận xét câu trả lời của bạn. -Giáo viên lắng nghe câu trả lời của học sinh với thái độ khuyến khích, động viên. -Có kĩ thuật đặt câu hỏi: Câu hỏi có hệ thống theo một lôgich nhất định, bám sát yêu cầu bài học, phù hợp với trình độ học sinh, gây hứng thú trả lời, hướng phát triển từng bước khám phát hiện ra bản chất của vấn đề được hỏi. Căn cứ trên nhiệm vụ cụ thể của mỗi giờ học văn có thể đề xuất một hệ thống câu hỏi như: loại câu hỏi tìm hiểu văn bản, loại câu hỏi tìm hiểu mối quan hệ giữa văn bản với các yếu tố ngoài văn bản; loại câu hỏi hình thành kiến thức văn học sử và lý luận văn học; loại câu hỏi gợi tìm và tóm tắt những vấn đề cơ bản của văn bản; loại câu hỏi đánh giá tổng hợp, khái quát chung về nội dung, nghệ thuật của văn bản; loại câu hỏi mang tính chất nghiên cứu văn học. 6. Ví dụ minh họa: Tìm hiểu hình ảnh của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn (bài “Bài thơ về tìm hiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật) -Bước 1: Giáo viên chuẩn bị hệ thống câu hỏi và định hướng cho học sinh chuẩn bị tham gia vấn đáp sau khi giáo viên cho học sinh đọc diễn cảm lại lần lượt khổ thơ: ?: Ở hai câu thơ đầu có giọng điệu như thế nào? Giọng điệu ấy có phù hợp với tính cách của người lái xe? (Học sinh phân tích ngữ pháp và giọng điệu, suy luận, so sánh và phát biểu, câu hỏi dựa vào thao tác tư duy, phân tích, so sánh). ?: Hai câu thơ toát lên được tư thế gì của người chiến sĩ lái xe? Điệp từ “ nhìn” có tác dụng gì? Các so sánh liên tiếp ở hai câu cuối khổ thơ có ý nghĩa gì?(Học sinh tập phân tích, liên tưởng và cảm nhận). Không có kính người chiến sĩ lái xe phải đối mặt với những khó khăn gì? Điệp từ “không có”, “ừ thì”, “ chưa cần” có tác dụng gì?( Học sinh phân tích, khái quát, phát biểu). Qua các chi tiết” phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha”, “ bắt tay nhau’, “chung bát đĩa” cho ta thấy người chiến sĩ lái xe còn có những tính cách, tình cảm gì? Em thích nhất hình ảnh nào? Vì sao? (Học sinh lựa chọn, tập lí giải lựa chọn và cảm nhận của mình). -Bước 2: Giáo viên nêu vấn đề sẽ đưa ra vấn đáp để học sinh thảo luận: ?:Nhà thơ trở lại tả hình dáng những chiếc xe không kính để làm gì? Câu kết “chỉ cần trong xe có một trái tim” hay ở chổ nào? (học sinh tham gia bàn luận phát biểu) -Bước 3: Giáo viên nhận xét và hệ thống hóa lại toàn bộ nội dung: Hình ảnh những người chiến sĩ lái xe: Tư thế ung dung, tinh thần dũng cảm, coi thường gian khổ, hiểm nguy, tâm hồn sôi nổi của tuổi trẻ, tình đồng chí, đồng đội, ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. C.Kết thúc vấn đề: Văn bản nói chung và văn bản văn học nói riêng là một kết cấu nghệ thuật tinh tế, có sự kết hợp giữa khách quan phản ánh và chủ quan biểu hiện của tác giả. Bằng ngôn ngữ và qua những ấn tượng, cảm giác mà ngôn ngữ mang đến, các văn bản có khả năng tái hiện một cách sinh động, gợi cảm, cụ thể, hiện thực khách quan. Các văn bản trong chương trình ngữ văn THCS đều đã được chọn lọc rất kĩ và là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, đặc sắc. Nó giúp học sinh nhận thức được cuộc sống, đưa đến những bài học, những suy tưởng, những cảm xúc thẩm mĩ cao đẹp, lắng sâu trong tâm hồn, tình cảm của con người. Những điều này lại phụ thuộc rất nhiều vào bề dày tri thức kinh nghiệm sống của mỗi các nhân. Do vậy, tiếp nhận văn bản là một hệ thống mở và kết quả tiếp nhận văn bản ở mỗi học sinh có thể khác nhau, thậm chí có nhiều mới lại chưa hẳn trùng hợp với dự kiến của giáo viên. Dạy văn thực chất là giúp học sinh biến tác phẩm của nhà văn, nhà thơ thành tác phẩm của mình, sống trong mình. Chính vì thế mà đổi mới PPDH còn có nghĩa là tôn trọng và đề cao những tìm tòi khám phá, phân tích văn bản tích cực của học sinh. Và bởi vậy việc “ sử dụng một số PPDH đặc thù trong các giò học văn “ là một yêu cầu quan trọng không thể thiếu đối với người giáo viên dạy văn trong giờ dạy văn. Người giáo viên dạy văn cần cân nhắc kĩ càng khi thiết kế một tiết dạy, để khi tìm hiểu xong một văn bản văn học, các em ghi nhận vào đầu mình được những gì?... Kết quả của một tiết học văn chưa hẳn phụ thuộc ở các em đã ghi được nhiều hay ít. Thầy giáo đã truyền đạt bằng lời cho các em được bao nhiêu nội dung mà điều quan trọng là các em đã cảm nhận được những gì thông qua hoạt động của mình. “Sử dụng một số PPDH đặc thù trong các giờ học văn” rất đa dạng và phong phú, nhưng ở đây chúng tôi chỉ xin minh họa qua bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là do thời gian có hạn rất mong sự cảm thông và sự đóng góp nhiệt tình của các thầy cô. Nhóm Ngữ văn Trường THCS Phan Bội Châu
Tài liệu đính kèm: