Ngữ văn 9 - Hãy phân tích vẽ đẹp của người chiến sĩ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật

Ngữ văn 9 - Hãy phân tích vẽ đẹp của người chiến sĩ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật

Đề bài: Hãy phân tích vẽ đẹp của người chiến sĩ trong “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

 Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong phong trào chống Mỹ cứu nước. Những năm tháng chiến tranh ác liệt sự ra đời của “bài thơ về tiểu đôi xe không kính” rút trong tập “ vầng trăng quầng lửa” như một sự thúc giục động viên người chiến sĩ ngoài mặt trận. Bài thơ thể hiện vẽ đẹp ngang tàng, trẻ trung, hiên ngang, dũng cảm của người chiến sĩ trong bom rơi ác liệt.

Luận điểm 1: Bài thơ mở đầu bằng một giọng thơ ngang tàng như bất cần đời để lí giải vì sao xe không có kính.

Xe không kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

 Mở đầu bài thơ người đọc bắt gặp ngay một giọng tự nhiên, tinh nghịch pha chút ngộ nghĩnh về chiếc xe không kính. “Xe không kính không phải vì xe không có kính”, đơn giản vì “bom giật bom rung kính vỡ mất đi rồi”. Nhận xét đánh giá Lời giải thích tuy không nói rõ nhưng qua cách sử dụng động từ mạnh liên tiếp “bom giật, bom rung” cũng cho ta thấy được sự ác liệt, hiểm nguy nơi chiến trường. Hình ảnh chiếc xe không kính gợi lên sự hiểm nguy, mất an toàn khi phải ngồi trên một chiếc xe như thế còn người chiến sĩ ở đây thì sao?

 Luận điểm 2: Hai câu thơ tiếp theo trực tiếp miêu tả cái phong thái ung dung, bất chấp gian khổ của người chiến sĩ lái xe.

Ung dung buồng lái ta ngồi

 Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng.

Nhận xét đánh giá (nội dung và nghệ thuật) Không phải vô cớ mà Phạm Tiến Duật đảo hai từ “ung dung ” lên đầu câu thơ, thái độ ung dung ấy đối lập với những “ổ trâu, ổ voi” “bom giật, bom rung” trên đường Trường Sơn đầy khói lửa. Nhịp thơ 2/2/2 đã gợi lên như nhịp xóc của chiếc xe. Hai tiếng ung dung vừa gợi hình, vừa tả được thái độ tự tin, được vẻ phớt đời, lạc quan coi thường bom đạn của người chiến sĩ lái xe. Tư thế ung dung ngồi trong buồng lái mặc cho bom giật, bom rung lại càng được khẳng định khi ta dõi theo cặp mắt người chiến sĩ “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Một tư thế đàng hoàng, chững chạc, tự tin. Thái độ ấy không chỉ thể hiện một tinh thần lạc quan bất chấp nguy hiểm gian khó mà còn cho thấy sự tự tin kiêu hãnh của những con người rất đỗi tự hào về sứ mệnh của mình. Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng là cái nhìn nghiêm trang, bất khuất như lời thề. Nhìn thẳng cũng là cái nhìn về phía trước, nhìn vào khó khăn, nhìn vào sự hi sinh, gian khổ nhưng không hề run sợ, không hề né tránh. Đó cũng là cái nhìn của người chiến thắng mà đạn bom quân thù không thể nào cản được. Nhìn thẳng về phía trước cũng là nhìn thẳng vào gian khổ, mất mát, hi sinh mà không chút nao núng, nhìn thẳng tới đích với một ý chí quyết tâm vững như thép. Ba điệp ngữ “nhìn” liên tiếp như một lời thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”

 

doc 2 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 982Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Ngữ văn 9 - Hãy phân tích vẽ đẹp của người chiến sĩ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: Hãy phân tích vẽ đẹp của người chiến sĩ trong “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
 Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong phong trào chống Mỹ cứu nước. Những năm tháng chiến tranh ác liệt sự ra đời của “bài thơ về tiểu đôi xe không kính” rút trong tập “ vầng trăng quầng lửa” như một sự thúc giục động viên người chiến sĩ ngoài mặt trận. Bài thơ thể hiện vẽ đẹp ngang tàng, trẻ trung, hiên ngang, dũng cảm của người chiến sĩ trong bom rơi ác liệt.
Luận điểm 1: Bài thơ mở đầu bằng một giọng thơ ngang tàng như bất cần đời để lí giải vì sao xe không có kính.
Xe không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
	Mở đầu bài thơ người đọc bắt gặp ngay một giọng tự nhiên, tinh nghịch pha chút ngộ nghĩnh về chiếc xe không kính. “Xe không kính không phải vì xe không có kính”, đơn giản vì “bom giật bom rung kính vỡ mất đi rồi”. Nhận xét đánh giá Ú Lời giải thích tuy không nói rõ nhưng qua cách sử dụng động từ mạnh liên tiếp “bom giật, bom rung” cũng cho ta thấy được sự ác liệt, hiểm nguy nơi chiến trường. Hình ảnh chiếc xe không kính gợi lên sự hiểm nguy, mất an toàn khi phải ngồi trên một chiếc xe như thế còn người chiến sĩ ở đây thì sao?
	Luận điểm 2: Hai câu thơ tiếp theo trực tiếp miêu tả cái phong thái ung dung, bất chấp gian khổ của người chiến sĩ lái xe.
Ung dung buồng lái ta ngồi
 Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng.
Nhận xét đánh giá (nội dung và nghệ thuật) Ú Không phải vô cớ mà Phạm Tiến Duật đảo hai từ “ung dung ” lên đầu câu thơ, thái độ ung dung ấy đối lập với những “ổ trâu, ổ voi” “bom giật, bom rung” trên đường Trường Sơn đầy khói lửa. Nhịp thơ 2/2/2 đã gợi lên như nhịp xóc của chiếc xe. Hai tiếng ung dung vừa gợi hình, vừa tả được thái độ tự tin, được vẻ phớt đời, lạc quan coi thường bom đạn của người chiến sĩ lái xe. Tư thế ung dung ngồi trong buồng lái mặc cho bom giật, bom rung lại càng được khẳng định khi ta dõi theo cặp mắt người chiến sĩ “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Một tư thế đàng hoàng, chững chạc, tự tin. Thái độ ấy không chỉ thể hiện một tinh thần lạc quan bất chấp nguy hiểm gian khó mà còn cho thấy sự tự tin kiêu hãnh của những con người rất đỗi tự hào về sứ mệnh của mình. Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng là cái nhìn nghiêm trang, bất khuất như lời thề. Nhìn thẳng cũng là cái nhìn về phía trước, nhìn vào khó khăn, nhìn vào sự hi sinh, gian khổ nhưng không hề run sợ, không hề né tránh. Đó cũng là cái nhìn của người chiến thắng mà đạn bom quân thù không thể nào cản được. Nhìn thẳng về phía trước cũng là nhìn thẳng vào gian khổ, mất mát, hi sinh mà không chút nao núng, nhìn thẳng tới đích với một ý chí quyết tâm vững như thép. Ba điệp ngữ “nhìn” liên tiếp như một lời thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”
Luận điểm 3: Đến khổ thơ thứ hai, người đọc hiểu thêm rằng thì ra những chiếc xe không kính lại tạo điều kiện cho người chiến sĩ lái xe được tiếp xúc với thiên nhiên với thế giới bên ngoài.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhì thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trưòi và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Nhận xét đánh giá Ú ở đây chất hiện thực và chất lãng mạn đan xen nhau, thấm quyện vào nhau. Cái hiện thực là nỗi gian khổ vì xe mất kính, người lính ngồi trong buồng lái mà mặt vẫn phải phơi trước gió sương. Nhưng trên cái nền hiện thực ấy, cái lãng mạn vút lên làm cho câu thơ như bay bổng. Bom đạn, gió mưa, chiếc xe đầy thương tích nhưng hoàn cảnh ấy không thể làm cho hồn người lính trở nên khô cằn chai sạn. Ngược lại, chiếc xe không kính giúp họ gần thiên nhiên hơn, thấy mình mạnh mẽ hơn. Thì ra chiếc xe không kính đã giúp người chiến sĩ được gió mát Trường Sơn xoa dịu đi những cơn mất ngủ vì phải lái xe thâu đêm. Nhận xét đánh giá Ú Một loạt hình ảnh phản ánh cảm giác mạnh xuất hiện, điệp ngữ “nhìn” kết hợp với nhịp thơ nhanh dồn dập như muốn nhấn chìm người chiến sĩ. Nhưng khó khăn càng không thể ngăn bước anh đi. Gió bụi Trường Sơn mùa khô có làm tóc các anh “ trắng như người già” nhưng đó là chuyện cỏn con chẳng đáng quan tâm. Nhìn thẳng vào bom đạn kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá đầy chết chóc để lái xe vượt qua tất cả. 
Chưa cần rữa, phì phèo châm điếu thuốc
“ phì phèo” là cách hút của những người mới tập, những ai hút chơi, hút để vui chứ không phải nghiện.“ Mưa tuôn mưa xối” ở Trường Sơn làm các anh ướt áo nhưng có hề chi. Đã thế thì “lái trăm cây số nữa”. Không phải bụi hay ướt làm các anh khó chịu mà cái chính là tuổi trẻ ngang tàng, niềm tin chiến thắng và lòng dũng cảm khiến các anh chịu đựng một cách dễ dàng và có phần thách thức. “ chưa cần rữalái trăm cây số nữa”.
	Lời thơ không văn vẽ mà bình dị mộc mạc đầy chất lính tráng thật đáng yêu. “Không có kính ừ thì có bụiừ thì ướt áo” Một tiếng "ừ" quả quyết, ngắn gọn, bất chấp tất cả, cả mưa tuôn, cả gió thổi, cả ướt áo, tiếng “ ừ thì” cứ lặp lại thật nhẹ nhàng như một tiếng đùa vui. Chỉ một tiếng “ừ thì” thôi nhưng hàm chứa cả bao nhiêu thách thức với khó khăn, gian khổ. Nêu suy nghĩ Ú Ai đã từng được sống, được đọc hoặc được nghe kể về cuộc chiến tranh ác liệt ở Trường Sơn có lẽ sẽ hiểu hơn về cuộc sống của họ. Người lính trong bài thơ được tác giả thể hiện thật chân thực. Trên đầu là hàng tấn bom của giặc Mỹ không ngừng dội xuống, họ lại phải đối mặt với bao nhiêu thách thức và hiểm nguy “ mưa tuôn, mưa xối” “ gió vào xoa mắt đắng” rồi những trận sốt rét vậy mà họ có hề chi, vẫn “ phì phèo châm điếu thuốc” vẫn “ lái trăm cây số nữa” vẫn “cười ha ha”. Cười ha ha là tiếng cười tự tin, cười sảng khoái, cười vào thử thách Họ vẫn lạc quan, yêu đời đấy thôi và những khó khăn, nguy hiểm kia đâu có làm gì được họ. 
	Luận điểm 4: Những khổ thơ tiếp theo Phạm Tiến Duật cho ta biết thêm về cuộc sống sinh hoạt của họ- một cuộc sống đầy khó khăn, thiếu thốn nhưng những người lính vẫn vui cười, vẫn chung bát đũa, họ là một tiểu đội nhưng cũng là một gia đình như anh em ruột thịt. 
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Tình đồng đội thiêng liêng sưởi ấm lòng chiến sĩ, họ tạm nghỉ bên nhau để rồi ngày mai lại lên đường “ lại đi lại đi ” họ đi kiếm tìm bầu trời xanh- bầu trời tự do cho nhân dân cho Tổ quốc. Họ là người chịu gian khổ đến tột cùng nhưng ở họ ta vẫn thấy ngời lên sự hào hùng tột bậc. Nhận xét đánh giá Ú Những câu thơ mộc mạc như lời nói hàng ngày nhưng đẫ diễn tả đúng tâm trạng chung của người chiến sĩ lúc đó. Họ chẳng khác gì người lính trong bài thơ “ năm anh em trên một chiếc xe tăng” đã lên xe là không còn tên riêng, đã vào cuộc là cùng một hướng. Họ xuất thân từ cảnh ngộ, xóm làng khác nhau như “quê hương anh nước mặn đồng chua; làng tôi nghèo đất cày lên sõi đá” nhưng cùng chung một chí hướng, chung một lí tưởng thì ra kính vỡ đâu chỉ giúp người chiến sĩ có cơ hội để gần gũi với thiên nhiên mà còn “ bắt tay qua cữa kính vỡ rồi” đó là cái bắt tay nhau hỏi thăm nhau ân cần, cái bắt tay truyền cho nhau niềm tin và sức mạnh.
Luận điểm 5: Nhưng cài gì đã khiến các anh có được những phẩm chất kiên cường, dũng cảm như vậy? Câu thơ kết thúc thật bất ngờ.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước 
. Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Nhận xét đánh giá Ú Bốn dòng thơ cuối cùng như một lời khẳng định cái “không” của chiếc xe “không kính, không đèn, không mui” nghĩa là chiếc chỉ là phương tiện vận chuyển lương thực và vũ khí vào chiến trường Miền Nam chứ không bảo đẩm toàn tính mạng cho người lính. Nói cái “không” để khẳng định cáo “có”. Đó là yêu nước nồng nàn, trái tim đầy tinh thần trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước, là trái tim yêu thương cũng là trái tim lửa cháy. Thì ra những người lính kia họ chiến đấu, hi sinh vì một mục đích to lớn và cao cả, đó là vì miền Nam ruột thịt, vì hòa bình thống nhất của đất nước. Đến đây ta hiểu vì sao người chiến sĩ lái xe có thể bất chấp hiểm nguy để lái chiếc xe “trần trụi” kia băng ra chiến trường. Đó là vì khát vọng hoà bình thống nhất đất nước, khát vọng giải phóng dân tộc. Nhận xét đánh giá Ú Khát vọng ấy thật to lớn và cao đẹp biết bao. Tất cả vì Miền Nam ruột thịt. Thì ra chiếc xe không kính trên kia là cái nền để tôn thêm vẽ đẹp của người lính. Chiếc xe càng trần trụi bao nhiêu thì khí phách kiên cường dũng cảm của người lính càng được tôn thêm bấy nhiêu. Nhận xét đánh giá Ú (nghệ thuật) Lời thơ không phô trương mà giản dị, không bóng bẩy mà trần trụi như chính chiếc xe không kính. Đó là độc đáo trong cách nói của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
	* )Bài thơ đã khép lại với một hình ảnh thơ thật đẹp “ chỉ cần trong xe có một trái tim” Nhà thơ Phạm Tiến Duật với tất cả tình cảm yêu mến, trân trọng của người trong cuộc đã viết về các anh thật chân thực mà cũng rất khoẻ khoắn, hào hùng. Có thể nói rằng “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là “một nốt trầm xao xuyến” trong bản hòa ca trầm hùng của đất nước vang tên tuổi của những con người bất tử.
	*) Đã hơn ba mươi năm kể khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc nhưng hình ảnh chiếc xe không kính vẫn còn đẹp mãi trong tâm hồn của thế hệ bạn đọc hôm nay. Xin cảm ơn nhà thơ Phạm Tiến Duật đã giúp chúng ta hiểu và tự hào về một thời gian khổ, hi sinh mà hào hùng của của tuổi trẻ Việt Nam trong công cuộc kháng chiến và bảo vệ Tổ quốc .

Tài liệu đính kèm:

  • docTIEU DOI XE KHONG KINH (PTD).doc