PHÂN TÍCH: “CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG”( Nguyễn Dữ)
A- MỞ BÀI
Trong bài thơ” Bánh trôi nước”, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã khắc họa hình ảnh người phụ nữ dưới xã hội phong kiến đẹp người, đẹp nết nhưng phải chịu số phận bất hạnh:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với mước non
Rắn nát mẵc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Không chỉ Hồ Xuân Hương mà các nhà văn, nhà thơ khác cũng lên tiếng bênh vực cho những con người luôn phải gánh chịu những bất công, ngang trái và tàn nhẫn của những luật lệ hà khắc và những hũ tục lạc hậu của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời. Điều đó chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ở Nguyễn Dữ với “ Chuyện người con gái Nam Xương”. Đây là truyện thứ mười sáu trong số hai mươi truyện trong “Truyền kì mạn lục”. Một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI . Thời gian đã trôi qua khá lâu nhưng câu chuyện và số phận bất hạnh của Vũ Thị Thiết vẫn ám ảnh người đọc. Bao thế hệ độc giả đã xót xa về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh, dưới chế độ phụ quyền phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của trẻ con mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẫy đến bước đường cùng, phải tự kết liễu đời mình để bày tỏ nỗi oan khuất. Một cái chết thật oan uổng, bất công!
B- THÂN BÀI:
1- Tóm tắt ngắn gọn tác phẩm:
Vũ nương, một người phụ nữ toàn vẹn, hiếu thảo thủy chung. Khi chồng vắng nhà, nàng luôn thể hiện là người dâu hiếu thảo, một người vợ đảm đang tháo vác. Nỗi mong ước ngày chồng về được đoàn tụ, thỏa nỗi nhớ mong và niềm khát khao hạnh phúc được đánh đổi bằng sự nghi ngờ là thất tiết và nàng đã giải thoát cuộc đời mình bằng cái chết thật thương tâm.
2- Giá trị hiện thực
Ngay từ đầu tác phẩm, Vũ Nương được giới thiệu là một người con gái “có tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” . Cũng vì mến mộ tính cách của nàng, Trương Sinh vốn là một chàng trai con nhà giàu có xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, mặc dù chồng nàng thất học, có tính đa nghi, nhưng nàng luôn là một người vợ đoan trang, khéo léo, chừng mực và khuôn phép nhờ đó mà gia đình của nàng luôn được hạnh phúc, chưa từng xãy ra chuyện thất hòa.
Giặc Chiêm sang xâm lược, Trương Sinh phải ra chiến trận. Khi tiễn chồng đi lính, nàng rót rượu và nói những lời ai nghe cũng “ đều ứa hai hàng lệ”. Nàng dặn dò chồng bằng những lời đằm thắm xuất phát từ tấm lòng chung thủy bằng những câu nói rất mực thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là mong ước hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên. Những lời tình nghĩa ấy thể hiện sự yêu thương thực sự, đã vượt lên trên những ước mong vinh hoa phú quí, ước mong lập tước công hầu. Tình thương chồng còn thể hiện qua sự cảm thông những vất vả gian lao mà chồng nàng phải chịu đựng trong những ngày tháng ở chiến trường xa xôi đầy gian khổ Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có , qua nỗi khắc khoải nhớ nhung: mà mùa dưa chín quá kì khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét, gởi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thưc tâm tình thương người đất thú! Dù có thư tín ngàn hàng cũng sợ không có cánh hồng bay bổng. Có thể thấy rằng nàng là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết. Tác giả miêu tả nỗi buồn thương, nhung nhớ khắc khoải triền miên theo theo thời gian ngày qua tháng lại , thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được còn lòng người thì dằng dặc một nỗi buồn thương. Trong nỗi niềm của người vợ xa chồng , nàng lại càng cảm thông cho cái nỗi niềm của người mẹ xa con .
PHÂN TÍCH: “CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG”( Nguyễn Dữ) A- MỞ BÀI Trong bài thơ” Bánh trôi nước”, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã khắc họa hình ảnh người phụ nữ dưới xã hội phong kiến đẹp người, đẹp nết nhưng phải chịu số phận bất hạnh: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với mước non Rắn nát mẵc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son” Không chỉ Hồ Xuân Hương mà các nhà văn, nhà thơ khác cũng lên tiếng bênh vực cho những con người luôn phải gánh chịu những bất công, ngang trái và tàn nhẫn của những luật lệ hà khắc và những hũ tục lạc hậu của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời. Điều đó chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ở Nguyễn Dữ với “ Chuyện người con gái Nam Xương”. Đây là truyện thứ mười sáu trong số hai mươi truyện trong “Truyền kì mạn lục”. Một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI . Thời gian đã trôi qua khá lâu nhưng câu chuyện và số phận bất hạnh của Vũ Thị Thiết vẫn ám ảnh người đọc. Bao thế hệ độc giả đã xót xa về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh, dưới chế độ phụ quyền phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của trẻ con mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẫy đến bước đường cùng, phải tự kết liễu đời mình để bày tỏ nỗi oan khuất. Một cái chết thật oan uổng, bất công! B- THÂN BÀI: 1- Tóm tắt ngắn gọn tác phẩm: Vũ nương, một người phụ nữ toàn vẹn, hiếu thảo thủy chung. Khi chồng vắng nhà, nàng luôn thể hiện là người dâu hiếu thảo, một người vợ đảm đang tháo vác. Nỗi mong ước ngày chồng về được đoàn tụ, thỏa nỗi nhớ mong và niềm khát khao hạnh phúc được đánh đổi bằng sự nghi ngờ là thất tiết và nàng đã giải thoát cuộc đời mình bằng cái chết thật thương tâm. 2- Giá trị hiện thực Ngay từ đầu tác phẩm, Vũ Nương được giới thiệu là một người con gái “có tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” . Cũng vì mến mộ tính cách của nàng, Trương Sinh vốn là một chàng trai con nhà giàu có xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, mặc dù chồng nàng thất học, có tính đa nghi, nhưng nàng luôn là một người vợ đoan trang, khéo léo, chừng mực và khuôn phép nhờ đó mà gia đình của nàng luôn được hạnh phúc, chưa từng xãy ra chuyện thất hòa. Giặc Chiêm sang xâm lược, Trương Sinh phải ra chiến trận. Khi tiễn chồng đi lính, nàng rót rượu và nói những lời ai nghe cũng “ đều ứa hai hàng lệ”. Nàng dặn dò chồng bằng những lời đằm thắm xuất phát từ tấm lòng chung thủy bằng những câu nói rất mực thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là mong ước hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên. Những lời tình nghĩa ấy thể hiện sự yêu thương thực sự, đã vượt lên trên những ước mong vinh hoa phú quí, ước mong lập tước công hầu. Tình thương chồng còn thể hiện qua sự cảm thông những vất vả gian lao mà chồng nàng phải chịu đựng trong những ngày tháng ở chiến trường xa xôi đầy gian khổ ‘’ Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có ’’, qua nỗi khắc khoải nhớ nhung: ‘’ mà mùa dưa chín quá kì khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét, gởi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thưc tâm tình thương người đất thú! Dù có thư tín ngàn hàng cũng sợ không có cánh hồng bay bổng’’. Có thể thấy rằng nàng là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết. Tác giả miêu tả nỗi buồn thương, nhung nhớ khắc khoải triền miên theo theo thời gian ‘’ ngày qua tháng lại , thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được’’ còn lòng người thì dằng dặc một nỗi buồn thương. Trong nỗi niềm của người vợ xa chồng , nàng lại càng cảm thông cho cái nỗi niềm của người mẹ xa con . Nàng lại yêu thương mẹ chồng hơn bao giờ hết, mặc dù nàng một mình nuôi mẹ già con dại, đằng đẳng tháng ngày đợi chờ, sự xa cách ấy càng tô đậm tấm lòng thủy chung, nỗi buồn thương khắc khoải triền miên theo ngày tháng . Nàng còn là người mẹ hiền , dâu thảo. Chồng đi chinh chiến xa xôi. Một mình nàng vừa lo con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng. Cách chăm sóc của nàng thật cảm động . Mẹ già đau ốm “nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn” . Lời trối trăn của bà mẹ chồng trước khi mất chính là một sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia đình nhà chồng :” Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn , trời xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng nhưn con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ mất “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Nàng làm tất cả những việc đó không phải vi trách nhiệm mà vì tình nghĩa thực sự trong lòng. Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đáng lẽ ra nàng được hạnh phúc khi chồng trở về. Nhưng không ! Xã hội không cho phép, nàng phải chị nỗi oan tình chỉ vì câu nói vô tình của con trẻ. Trước thái độ giận dữ ghen tức của Trương Sinh, nàng một mực phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng nói về thân phận mình :” Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, Nàng nói về tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng chung thủy trong trắng của mình :” Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nuôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đau có sự mất nết hư thân như lời chàng nói “ . Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan “ Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp” . Trong những lời nói ấy, Vũ Nương đã cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Vũ Nương hết lời phân trần nhưng Trương Sinh vẫn không tin :” mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Ngay cả cái quyền bảo vệ mình, nàng cũng không có. Lời nói của nàng thâu tóm tất cả những nỗi đau khổ của một đời phụ nữ. Hạnh phúc gia đình- “ cái thú vui nghi gia nghi thất”, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ. Tình yêu cũng không còn-“ bình rơi, trâm gãy,mây tạnh, mưa tan,sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn”. Ngay cả cái khổ chờ chồng hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa:” nước thăm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng phu kia nữa”. Mọi cố gắng của nàng đều trở thành vô ích, không thể giải được nỗi oan khuất, tất cả đều tan vỡ, nàng đau khổ và tìm đến cái chết để tỏ rõ tấm lòng trong trắng, mượn nước sông để rửa sạch tiếng nhuốt nhơ oan ức. “ Nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngữa mặt lên trời mà than rằng: -Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buôc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng long chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạvà xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.” Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng, của một kẻ bạc mệnh đầy đau khổ. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quả quyết cuối cùng để bảo toàn danh dự. Ở truyện cổ tích miêu tả việc tự tử của nàng như một hành động bột phát trong cơn tuyệt vọng: “ Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước:”. Còn trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, hành động ấy có nỗi đau khổ tuyệt vọng nhưng cũng có sự tham gia của lí trí:” tắm gội chay sạch” trước khi quyên sinh, và lời nguyền của nàng rất rõ ràng, dứt khoát. Cái chết của Vũ Nương thể hiện nỗi đau khổ của nàng đã lên đến tột cùng. Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na, hiền thục lại đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu thảovới mẹ chồng, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, thế nhưng phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Câu chuyện về Vũ Nương đã thể hiện sâu sắc số phận bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phụ quyền phong kiến đầy bất công. Cái chết của nàng đã tố cáo những hũ tục lạc hậu của chế độ phong kiến, lên án các thế lực thần quyền trong xã hội, đặc biệt là thói‘’ trọng nam khinh nữ’’. Cái chết ấy đã phơi bày những tàng bạo, khổ đau của chiến tranh phong kiến mà gia đình Vũ Nương là tiêu biểu cho sự ‘’tang đàn xẻ nghé’’ Với Trương Sinh là con nhà hào phú nhưng không có học. Trương lấy Vũ Nương nào phải là tình yêu, mà chỉ “mến vì dung hạnh xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về” mầm móng bi kịch của Vũ Nương có lẽ đã bắt đầu từ những yếu tố này. Cuộc hôn nhân vốn đã không bình đẳng giữa nam và nữ, lại thêm sự cách bức giàu nghèo: Vũ Nương “ vốn con kẻ khó” , lấy Trương Sinh nàng được nương tựa nhà giàu. Vũ Nương sẽ là một nạn nhân trong xã hội đầy bất công. Trong đời sống vợ chồng Trương Sinh la: “ người chồng có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Một trong những nguyên nhân gây ra tai họa cho vợ. Hết chiến tranh Trương Sinh trở về đối diện với nỗi mất mát: mẹ già vì thương nhớ con nên sinh bệnh và đã qua đời. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, tính tình chàng cũng dễ bị xúc động. Lời nói ngây thơ của con trẻ đã kích động tính ghen tuông, nóng nảy của Trương Sinh. Tác giả xây dựng đoạn truyện này bằng những chi tiết đầy kịch tính. Chàng bế con” đứa trẻ không chịu, ra đến đồng nó quấy khóc” chàng dỗ dành, đứa con ngây thơ nói” Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Oâng biết nói, chư không như cha tôi trước kia chỉ nín thi thít”. Lời nói được tách ra thành hai phần, phần sau thông tin càng “ghê gớm” hơn phần trước. Làm sao Trương Sinh lại không khỏi bàng hoàng khi biết đứa trẻ có hai người cha, người cha Trương Sinh biết nói và người cha kia chỉ nít thin thít. Sau đó lại thêm những thông tin:” Một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tục ngữ có câu:”Ra đường hỏi già về nhà hỏi trẻ”, trẻ con bao giờ cũng nói thật. Những lời nói ngây thơ của đứa con khiến người cha không thể không nghĩ đến cảnh tượng của một đôi gian phu, dâm phụ, huống chi là Trương Sinh: “ Tính chàng hay ghen, nghe con nói vây, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Một cách dẫn dắt tình tiết như vậy là rất chân thực và khéo léo Tuy nhiên, điều đáng trách là cư xử của Trương Sinh. Con người ít học này đã hành động một cách quá nông nỗi và hồ đồ. Không cần hỏi vợ đến nữa lời, vừa về đến nhà, chàng đã”la um lên cho hả giận”. Chàng không còn bình tĩnh để phân tích, phản đoán, mặc kệ những lời phân trần của Vũ Nương, rồi ” họ hành, làng xóm bênh vực và biện bạch cho nành, cũng chẳng ăn thua”. Cách duy nhất để làm sáng tỏ mọi chuyện là giải quyết chính cái nguyên nhân gây xung đột: kể lại câu chuyện của đứa trẻ. Những điều tệ hại nhất là chàng cũng không cho nàng cơ hội để minh oan khi nhất quyết ” giấu không kể lời con nói”. Trương Sinh từ một người chồng độc đoán, ghen tuông mù quáng đã trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo” mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Trước hành động ấy đã buộc người phụ nử đáng thương phải chét một cách bi thảm. Đáng giận hơn nữa là cái chết của Vũ Nương vẫn không thể làm cho Trương Sinh tỉnh ngộ để tin nàng trong sạch. Chàng vẫn “ giận nàng thất tiết” và chỉ “ động lòng thương”. Nhân vật Trương Sinh là hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đoán, chuyên quyền, sự nòng nảy, ghen tuông đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kịch. 3- Giá trị nhân đạo: Qua câu chuyện về Vũ Nương , tác giả muốn gởi gắm lòng thương cảm đối với những con người bất hạnh, đặc biệt là những người phụ nữ với những nỗi oan tình. Tác giả đã cảm thông, chia xẻ với một kiếp người bất hạnh, đồng thời muốn đề cao, ca ngợi họ. Bên cạnh là những lời tố cáo sắc bén về những hũ tục lạc hậu những luật lệ hà khắc của xã hội phong kiến. Điều đó, chúng ta thấy được khi Nguyễn Dữ không cho Vũ Nương trở về nhân gian ở cuối truyện chính là muốn tìm cho họ một con đường giải thoát khỏi những đau thương của xã hội phong kiến dành cho họ. Lời nói của Vũ Nương là lời buột tội xã hội, tố cáo xã hội phong kiến thối nát không có chỗ cho những người như nàng dung thân. Có thể đó là tiếng lòng của tác giả muốn gởi gắm trong câu chuyện này. Nguyễn Dữ muốn để lại một bài học sâu sắc cho các đức ông chồng đặc biệt là những ông chồng đa nghi thất học như Trương Sinh. 4- Giá trị nghệ thuật: Truyện có lối kể như một câu chuyện cổ tích nhưng hấp dẫn luôi cuống người đọc bằng những kịch tính đầy những bất ngờ. Đặc biệt là hình ảnh chiếc bóng trở thành điểm thắt và mở của câu chuyện. Có thể nói làm nên giá trị nghệ thuật của câu chuyện là những yếu tố kì ảo ở cuối truyện. Trong truyện cổ tích: “ Vợ chàng Trương” kết thúc ở chỗ thằng bé chỉ cái bóng trên tường. Trương Sinh tỉnh ngộ và thấu nỗi oan của vợ. Kết thúc như thế là đã có hậu vì nỗi oan của Vũ Nương đã được giải. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trị mới. Câu chuyện ở trâøn gian chấm dứt, tác giả mở tiếp câu chuyện ở thế giới thần linh. Sư hấp dẫn của đoạn truyện này, trước hết là nhờ yếu tố hoang đường, yếu tố kì ảo: Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh, rồi thả rùa mai xanh; Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương; câu chuyện của Vũ Nương được tiên rẽ nước cứu mạng đưa về thủy cung; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ nước đưa về dương thế; Hình ảnh Vũ Nương hiên ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh huyền ảo với “ một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện”, rồi sau đó “ bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” trong chốc lát. Dẫu biết rằng đó chỉ là những yếu tố hoang đường, nhưng người đọc vẫn cảm thấy gần gũi và chân thực. Bởi tác giả khéo kết hợp những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, sự kiện và nhân vật lịch sử, những chi tiết về trang phục của các mĩ nhân và Vũ Nương, câu chuyện của Phan Lang về tỉnh cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng chết. Các yếu tố kì ảo có một ý nghĩa hết sức sâu sắc. Trước hết, những yếu tố kì ảo có ý nghĩa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, thương nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng ” ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng: -Có lẽ không thể gửi hình, ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bấc, chim Việt đậu cành non. Căm vì nỗi ấy, tôi tât phải tim về có ngày”. Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó, nỗi đau oan khuất, vẫn khao khát phục hồi danh dự: “ Nhờ nói hộ với cháng Trương, nếu còn nhớ đến chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”. Điều quan trọng hơn, là những yếu tố kì ảo đó đã tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm, thể hiện mơ ước ngàn đời của người dân về lẽ công bằng: người tốt dù có trãi qua bao nhiêu oan khuất, cuối cùng cũng đã đền trả xứng đáng, cái thiện bao giờ cũng thắng. Tuy nhiên, kết thúc có hậu không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về uy nghi, rực rỡ nhưng chỉ thấp thoáng, lúc ẩn, lúc hiện ở giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi thiếp “ đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về dân gian được nữa”. Mà điều chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể nào làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải, nhưng hạnh phúc thực sự không tìm lai được. Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương biểu lộ thái độ phủ định cõi trần với xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. So với truyện dân gian, kết thúc truyện của Nguyễn Dữ cũng làm tăng thêm tính trừng phạt đối với Trương Sinh. Vũ Nương không trở về, Trương Sinh: càng phải cắn rứt càng ân hận về lỗi lầm của mình. III- KẾT BÀI Bằng cốt truyện dân gian có sự sáng tạo, Nguyễn Dữ đã cho người đọc một câu chuyện đầy cảm động về số phận của những người phụ nữ bất hạnh dưới xã hội phong kiến bất công và tàn bạo. Với tấm lòng yêu thương con người sâu nặng, bằng bút pháp kể chuyện già dặn và những tình tiết lúc chân thực đời thường, lúc hoang đường kì ảo, tác giả đã xây dựng hình tượng nhân vật vô cùng sống động mang ý nghĩa xã hội cao. Do đó tác phẩm của ông đã giáo dục chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, lòng quyết tâm sống chiến đấu vì quyền sống và hạnh phúc của con người. Tác phẩm là câu chuyện tình đầy cảm động với những đau thương bất hạnh của người phụ nữ ngày xưa, là bài học quí giá về đạo đức vợ chồng từ xưa đến nay và mãi mãi sau này. **************
Tài liệu đính kèm: