Phân tích bài thơ “Ánh trăng” Nguyễn Duy

Phân tích bài thơ “Ánh trăng” Nguyễn Duy

Đề Bài: Phân tích bài thơ “ánh trăng” Nguyễn Duy.

 Bài làm

 Bàn về cách sống nhân nghĩa, thuỷ chung, sắt son, của con người, nhân dân ta có câu:

 “Uống nước nhớ nguồn”.

 Đó là một truyền thống tốt đẹp mà con người ta luôn phải hướng tới. Là một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Duy đã cho ra dời “ánh trăng” năm 1978 . Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên năm 1984. Tác phẩm như những lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước bình dị, hiền hậu. Mang tính triết lí sâu xa, “ánh trăng” thực sự khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, về trách nhiệm sống của mỗi con người nhất là trong thời kì hiện đại.

 Bài thơ như một câu chuyện nhỏ kể theo trình tự thời gian. Trong mỗi khổ, chữ cái đầu khổ viết hoa, đầu dòng không viết hoa .Đó là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Duy để tạo cho mỗi khổ thơ thành một mạch ý , cả bài thơ là một dải lụa trăng mềm mại. Ngay từ khổ thơ đầu, tác giả đã giới thiệu vầng trăng tuổi thơ,và vầng trăng thời chiến tranh:

 “Hồi nhỏ tri kỉ”.

 Chỉ bằng bốn câu thơ tác giả đã dựng lại cả thời niên thiếu cũng như đến lúc trưởng thành của mình. . Người đọc như cảm nhận được thời niên thiếu được ngao du đây đó của tác giả và vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật gieo vần lưng và điệp từ “với” để diễn tả một tuổi thơ bao la, hạnh phúc và điều đó như một hoài niệm về tuổi thơ của tác giả. Trong từng vần thơ ta như thấy thấp thoáng bóng dáng một cậu bé hồn nhiên lớn lên và vui chơi theo tháng ngày ở nơi ruộng, đồng, sông, bể, và rồi như thấy cậu bé năm xưa đã lớn lên và trở thành chiến sĩ.

 Bằng nghệ thuật nhân hoá, Nguyễn Duy đã khắc hoạ vẻ đẹp tình nghĩa thuỷ chung của trăng đối với người lính. Cuộc sống ở rừng với biết bao gian khổ, khó khăn nhưng trăng đã đến với người lính bằng một tình cảm chân thành không chút ngần ngại. Tình bạn giữa người lính và trăng gắn bó đằm thắm và trở thành tri kỉ lúc nào không hay biết. Tác giả đã nhân hoá trăng như một con người thực sự, trăng không chỉ có hồn mà trăng còn mang vẻ hoang sơ, mộc mạc:

 “Trần trụi tình nghĩa”.

 

doc 3 trang Người đăng minhquan88 Lượt xem 1323Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích bài thơ “Ánh trăng” Nguyễn Duy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề Bài: Phân tích bài thơ “ánh trăng” Nguyễn Duy.
 Bài làm
 Bàn về cách sống nhân nghĩa, thuỷ chung, sắt son, của con người, nhân dân ta có câu:
 “Uống nước nhớ nguồn”.
 Đó là một truyền thống tốt đẹp mà con người ta luôn phải hướng tới. Là một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Duy đã cho ra dời “ánh trăng” năm 1978 . Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên năm 1984. Tác phẩm như những lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước bình dị, hiền hậu. Mang tính triết lí sâu xa, “ánh trăng” thực sự khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, về trách nhiệm sống của mỗi con người nhất là trong thời kì hiện đại.
 Bài thơ như một câu chuyện nhỏ kể theo trình tự thời gian. Trong mỗi khổ, chữ cái đầu khổ viết hoa, đầu dòng không viết hoa .Đó là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Duy để tạo cho mỗi khổ thơ thành một mạch ý , cả bài thơ là một dải lụa trăng mềm mại. Ngay từ khổ thơ đầu, tác giả đã giới thiệu vầng trăng tuổi thơ,và vầng trăng thời chiến tranh:
 “Hồi nhỏ tri kỉ”.
 Chỉ bằng bốn câu thơ tác giả đã dựng lại cả thời niên thiếu cũng như đến lúc trưởng thành của mình. . Người đọc như cảm nhận được thời niên thiếu được ngao du đây đó của tác giả và vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật gieo vần lưng và điệp từ “với” để diễn tả một tuổi thơ bao la, hạnh phúc và điều đó như một hoài niệm về tuổi thơ của tác giả. Trong từng vần thơ ta như thấy thấp thoáng bóng dáng một cậu bé hồn nhiên lớn lên và vui chơi theo tháng ngày ở nơi ruộng, đồng, sông, bể, và rồi như thấy cậu bé năm xưa đã lớn lên và trở thành chiến sĩ.
 Bằng nghệ thuật nhân hoá, Nguyễn Duy đã khắc hoạ vẻ đẹp tình nghĩa thuỷ chung của trăng đối với người lính. Cuộc sống ở rừng với biết bao gian khổ, khó khăn nhưng trăng đã đến với người lính bằng một tình cảm chân thành không chút ngần ngại. Tình bạn giữa người lính và trăng gắn bó đằm thắm và trở thành tri kỉ lúc nào không hay biết. Tác giả đã nhân hoá trăng như một con người thực sự, trăng không chỉ có hồn mà trăng còn mang vẻ hoang sơ, mộc mạc:
 “Trần trụi tình nghĩa”.
 Trăng và người lính đã đến với nhau bằng sự đồng cảm. Rừng khuya lạnh lẽo trăng và con người đều cần tình cảm. Trăng và người tìm đến nhau, sưởi ấm nhau bằng tình cảm bạn bè. Trăng hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ mà gần gũi. Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bạn hữu. Vầng trăng tình nghĩa ấy đã khiến cho tác giả:
 “Ngỡ tình nghĩa”.
 Lời thơ vẫn thủ thỉ, tâm tình nhưng dường như đã có sự biến chuyển:
 “Từ hồi cửa gương”.
 Chiến tranh kết thúc, người lính trở về, họ sống trong một cuộc sống đầy đủ những tiện nghi hiện đại: ánh điện, cửa gương. Vầng trăng kia- người bạn mà có lúc người tưởng như không bao giờ quên .Vậy mà câu thơ sau đã có sự đối lập:
 “Vầng trăng đường”.
 Tại sao lại có sự thay đổi phũ phàng ấy? Tại sao trăng đã được coi là “tri kỉ” nay trở thành “người dưng”? Phải chăng hoàn cảnh sống đổi thay đã khiến cho lòng người thay đổi? Quen sống với vật chất đấy đủ, tiện nghi cao sang, ánh điện, cửa gương,nên người lính đã quên đi quá khứ, quên đi tình cảm chân thành mà người và trăng đã từng gắn bó. Chính sự lãng quên ấy đã phá vỡ tình bạn. Hình ảnh đối lập trong câu thơ làm tăng thêm sự chua xót. Người lính đã vậy còn trăng thì sao? Bị bạn lãng quên nhưng trăng không hề quên bạn. Trăng vẫn đến với bạn bằng một tình cảm tràn đầy, không mảy may sứt mẻ. Người lính chỉ nhận ra điều ấy khi sự cố xảy ra:
 “Thình lình tròn”.
 Các từ “vội, đột ngột, thình lình” gợi ra tâm trạng đột biến của người lính, để nhận ra một sự thật: dù con người có cố tình lãng quên thì trăng vẫn dành cho người tình cảm chân thành. Trăng không hề đòi hỏi một điều gì mà chỉ biết yêu, biết thương hết mình. Đối với người, trăng vẫn luôn vị tha và khoan dung. Cũng chính sự khoan dung đó đã khiến cho con người phải day dứt. Con người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, để hướng tới sự cao cả. Giọng thơ như thì thầm, trò chuyện, giãi bày tâm sự. Con người từng quay lại quá khứ nhưng trăng đã đánh thức tâm hồn họ:
 “Ngửa mặt rừng”.
 Con người trực tiếp đối diện với vầng trăng, trăng đã đánh thức lại những kỉ niệm quá khứ, đánh thức lại tình bạn năm xưa, đánh thức những gì con người từng lãng quên. Giờ đây người bạn lại thực sự bình đẳng. Tình nghĩa thuỷ chung trọn vẹn của trăng đã làm người xúc động “rưng rưng” nước mắt. Con người đang hối hận hay đang nhớ về kỉ niệm xưa? Cấu trúc câu thơ song hành kết hợp với nghệ thuật so sánh và điệp từ đã cho ta thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa, hình ảnh thơ đã đi vào lòng người một cách nhẹ nhàng mà thấm thía. Vầng trăng luôn tràn đầy tình người nhưng đáng tiếc thay cái tình người đáng quý ấy lại bị con người bỏ rơi. Mặc dù vậy, trăng vẫn thuỷ chung, cao thượng cho dù bị con người lãng quên:
 “Trăng cứ phăng phắc”.
 Trăng vẫn tròn đầy, vẻ đẹp đầy đặn, viên mãn cho dù con người có vô tình lãng quên. Không nói một lời, trăng vẫn khoan dung, tha thứ cho người bạn đã lạnh lùng với mình. Trăng không trách móc, oán hờn, nhưng đôi khi sự im lặng lại chính là sự trừng phạt nặng nề nhất. Vì vậy, người lính đã băn khoăn day dứt biết chừng nào:
 “Đủ cho ta giật mình”.
 “Giật mình” thể hiện một sự lột xác, một sự thay đổi để trở về với chính mình tốt đẹp khi xưa. Cái “giật mình” để tự hoàn thiện và đó cũng chính là sự sáng tạo của tác giả. Không có một toà án nào phán xét sự phản bội trong tình bạn mà chỉ có toà án lương tâm đang trỗi dậy khiến người lính nhìn lại mình để nhận ra rằng mình đã lãng quên một phần rất quan trọng trong cuộc đời, đó là quá khứ. Con người ta không thể sống thiếu qua khứ mà phải biết đứng trên quá khứ để hướng tới tương lai. Đó mới thật là cách sống của một con người.
 Đọc bài thơ như một lần được thanh lọc lại tâm hồn mình, một lần được đối diện với chính mình. Với cách viết gần gũi, giản dị nhưng mang tính triết lí sâu xa “ánh trăng” như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình,với mọi người về lẽ sống thuỷ chung tình nghĩa. Bài thơ đã khép lại,nhưng vẫn mở ra cho chúng ta biết bao suy nghĩ, trăn trở về cách sống làm người. Có lẽ vì vậy mà bài thơ đã trụ vững trong lòng người đọc và neo lại với thời gian.

Tài liệu đính kèm:

  • docanh trang.doc