Tác phẩm chuyên thi vào lớp 10 môn Văn (Phần 6)

Tác phẩm chuyên thi vào lớp 10 môn Văn (Phần 6)

MÂY VÀ SÓNG

(Ta-go)

I - GỢI Ý

1. Tác giả:

- Ra-bin-dra-nath Ta-go (1861-1941) là nhà văn lớn, nhà văn hoá lỗi lạc của ấn Độ, sinh tại Can-cút-ta, là con út trong một gia đình đẳng cấp quí tộc Ba-la-môn. Cha ông là nhà triết học, nhà cải cách xã hội nổi tiếng. Cả mười ba anh chị em ruột của Ta-go đều trở thành những văn sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ và những nhà hoạt động xã hội xuất sắc của ấn Độ. Ta-go sớm có ý thức về đất nước, về dân tộc. Tám tuổi, Ta-go đã nổi tiếng giỏi văn nhất vùng Băng-gan và làm thơ hay. Mười ba tuổi, Ta-go đã có tác phẩm Bông hoa rừng được đăng trên tạp chí. Ngoài sáng tác văn học, Ta-go còn sáng tác cả nhạc, hoạ, dịch sách cổ ấn Độ bằng tiếng Phạn, dịch Mắc-bét của Sếch-xpia. Ta-go từng mở trường học, đi diễn thuyết phản đối sự xâm lược của thực dân Anh, tham gia thành lập Hội các nhà văn tiến bộ ấn Độ, tích cực kêu gọi đấu tranh chống ách nô dịch của đế quốc và tàn dư phong kiến. Từ năm 1916, Ta-go thực hiện chương trình du lịch thế giới với mục đích: "đi xa để được tái sinh mãi mãi trên quê hương ấn Độ. ấn Độ nghèo khổ đau thương nhưng tôi yêu ấn Độ nhất". Năm 1916 ông đi Nhật; năm 1917 đi qua Anh, Mĩ; năm 1921 đến thăm Pháp, 1924 đến Trung Quốc, 1929 Ta-go đã đến Việt Nam.

doc 11 trang Người đăng duyphuonghn Lượt xem 595Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Tác phẩm chuyên thi vào lớp 10 môn Văn (Phần 6)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÁC PHẨM CHUYÊN THI VÀO LỚP 10
MÂY VÀ SÓNG
(Ta-go)
I - GỢI Ý
1. Tác giả:
- Ra-bin-dra-nath Ta-go (1861-1941) là nhà văn lớn, nhà văn hoá lỗi lạc của ấn Độ, sinh tại Can-cút-ta, là con út trong một gia đình đẳng cấp quí tộc Ba-la-môn. Cha ông là nhà triết học, nhà cải cách xã hội nổi tiếng. Cả mười ba anh chị em ruột của Ta-go đều trở thành những văn sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ và những nhà hoạt động xã hội xuất sắc của ấn Độ. Ta-go sớm có ý thức về đất nước, về dân tộc. Tám tuổi, Ta-go đã nổi tiếng giỏi văn nhất vùng Băng-gan và làm thơ hay. Mười ba tuổi, Ta-go đã có tác phẩm Bông hoa rừng được đăng trên tạp chí. Ngoài sáng tác văn học, Ta-go còn sáng tác cả nhạc, hoạ, dịch sách cổ ấn Độ bằng tiếng Phạn, dịch Mắc-bét của Sếch-xpia. Ta-go từng mở trường học, đi diễn thuyết phản đối sự xâm lược của thực dân Anh, tham gia thành lập Hội các nhà văn tiến bộ ấn Độ, tích cực kêu gọi đấu tranh chống ách nô dịch của đế quốc và tàn dư phong kiến. Từ năm 1916, Ta-go thực hiện chương trình du lịch thế giới với mục đích: "đi xa để được tái sinh mãi mãi trên quê hương ấn Độ. ấn Độ nghèo khổ đau thương nhưng tôi yêu ấn Độ nhất". Năm 1916 ông đi Nhật; năm 1917 đi qua Anh, Mĩ; năm 1921 đến thăm Pháp, 1924 đến Trung Quốc, 1929 Ta-go đã đến Việt Nam.
- "Trước khi kết thúc câu chuyện về Ta-go, tôi muốn nói đến một mặt nữa cũng rất đáng chú ý của tâm hồn tác giả, thể hiện trong tập Trăng non - tập thơ về trẻ em.
Trên thế giới, từ xưa đến nay, có rất nhiều nhà thơ viết về đề tài này. Được đặc biệt nhắc nhở và ca ngợi là nhà thơ Pháp, Vích-to-Huy-gô với tập thơ Nghệ thuật làm ông, viết vào lúc gần tám mươi tuổi. Nhà thơ Pháp tìm trong đứa cháu nhỏ của mình niềm vui thanh thản trong tuổi già và sung sướng như được sống lại những ngày thơ ấu. Nhà thơ ấn Độ đi vào thế giới trẻ con với một tâm trạng hoàn toàn khác biệt. Thơ về trẻ con của Ta-go trong sáng, hồn nhiên và chân thực. Ông tỏ ra có đủ tươi non để hiểu được tâm hồn kì diệu của các em và để mô tả thế giới lạ lùng này, Ta-go đã dùng một ngôn ngữ thích hợp vô cùng phong phú" (Tuyển tập Đào Xuân Quí - NXB văn học, 2002).
2. Tác phẩm:
Ta-go có sức sáng tạo thật phi thường. Ông đã để lại một gia tài văn hoá nghệ thuật đồ sộ, gồm: 
- 52 tập thơ, trong số đó, đáng chú ý là các tập Thơ dâng (1910), Thiên nga (1914-1916), Người làm vườn (1914), Mùa hái quả (1915), Thơ ngắn (1922), Mơ-hua (1928).
- 42 vở kịch, trong đó xuất sắc nhất là Vua và Hoàng hậu (1889), Lễ máu (1890), Dòng tự do (1922). 
Kịch Ta-go rất đa dạng, một số vở viết theo lối tượng trưng như: Ông vua (1913); một số vở kết hợp giữa kịch và thơ trữ tình như: Phòng bưu điện (1913), Thầy tu khổ hạnh (1916). 
- 12 bộ tiểu thuyết, trong đó đáng chú ý có: Đắm thuyền (1906), Hạt bụi trong mắt (1913), Ngôi nhà và thế giới (1916), Gô-ra (1905-1908).
- Khoảng một trăm truyện ngắn, rất nhiều bút kí, luận văn, diễn văn, thư tín,... và 1.500 bức hoạ.
Những tác phẩm của Ta-go mang đến cho bạn đọc những cảm xúc rất sâu sắc, mãnh liệt một phần cũng bởi đã được trải nghiệm qua cuộc sống đầy gian nan, trắc trở của chính nhà thơ.
Ông là nhà văn châu á đầu tiên được nhận giải thưởng Nô-ben về văn học.
- Bài thơ Mây và sóng được viết bằng tiếng Ben-gan, in trong tập Si-su, xuất bản năm 1909, sau này được chính Ta-go dịch ra tiếng Anh, in trong tập Trăng non, xuất bản năm 1915.
II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Trong bài Cuộc đời tôi Ta-go viết: "Ngay từ lúc bé, tôi đã rất nhạy cảm với vẻ đẹp thiên nhiên, rất thích gần gũi, thân mật với cây cối, chim muông, trăng sao... và như muốn hoà nhập với khúc nhạc của bốn mùa thời tiết". Tình yêu thiên nhiên ấy cũng được thể hiện trong bài thơ Mây và sóng. Nhưng ở bài thơ này, chúng ta còn nhận ra một điều rằng chính vẻ đẹp của cuộc sống con người, tình người mới là bờ bến của tâm hồn thi nhân. Thiên nhiên dường như là một hình thức nào đó để con người bày tỏ tình yêu thương, để gửi vào đó sự sống người bất diệt, không cùng. Tình người ấy kéo tâm hồn phiêu lưu về với cuộc sống bằng sức mạnh níu kéo của tình mẫu tử máu thịt, thiêng liêng.
Mây và sóng là hình ảnh mang tính tượng trưng cao. Đó là không gian mây (không phải mây gọi con mà là trên mây có người gọi con); không gian sóng (không phải sóng gọi con mà là trong sóng có người gọi con). Không gian mây - sóng là thiên nhiên hay còn là chốn diệu vợi, siêu nhiên? Đó là con (Con sẽ là mây..., Con là sóng...) trong trò chơi mẫu tử yêu thương. Hay còn là khát vọng hoà hợp giữa cái không cùng với tình đời gần gụi, là sự phát hiện vẻ đẹp của cái không cùng trong tình mẫu tử?
Bài thơ có bố cục hai phần. Về mặt hình thức, hai phần của bài thơ tương đối song trùng. Về nội dung, phần đầu là câu chuyện giữa con với những người sống trên mây và trò chơi con - mẹ / mây - trăng; phần hai là câu chuyện giữa con với những người sống trong sóng và trò chơi con - mẹ / sóng - bờ. Tất cả được thể hiện trong lời độc thoại của con - thực thể của chủ thể trữ tình. Mặc dù hình thức tổ chức câu thơ, khổ thơ, ý thơ tương đối song trùng nhau nhưng ẩn sâu dưới những hình ảnh của từng phần là mạch cảm xúc phát triển, lời mời gọi sau quyến rũ hơn lời mời gọi trước, hứng thú sau cao hơn hứng thú trước, tình mẫu tử trong câu chuyện sau cũng dào dạt hơn, mênh mang hơn... Lời mời gọi từ mây (Chúng tôi chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà - Chúng tôi chơi với vầng trăng bạc) không hấp dẫn bằng lời mời gọi từ sóng (Chúng tôi ca hát từ bình minh đến tối,- Chúng tôi ngao du nơi này nơi nọ mà không biết mình đến từ nơi nao), trong khi để đến được chốn mây khó khăn hơn (Hãy đến nơi tận cùng Trái Đất) trong khi để đến được chốn sóng phiêu du hơn, quyến rũ hơn mà lại dễ dàng hơn (Hãy đến bên rìa bờ biển). Thêm nữa, lí do để từ chối lời mời gọi từ mây bức thiết hơn (mẹ tôi đang đợi ở nhà), lời mời gọi từ sóng hứng thú hơn mà lí do chối từ lại ít bức thiết hơn (Buổi chiều, mẹ luôn muốn tôi ở nhà); thế mà ở lần sau, khi sóng quyến rũ, con vẫn chối từ để được gần mẹ. Vì thế nên cung bậc tình cảm được đẩy lên từ "mái nhà ta sẽ là bầu trời xanh thẳm" cho đến "Con sẽ lăn, lăn, lăn mãi, cùng tiếng cười vỡ tan vào lòng mẹ - Và không ai trên thế gian này biết chốn nào là nơi ở của mẹ con ta".
Trong đối thoại của con với mây và con với sóng đều thấy có câu "Con hỏi:...". Không yêu mến thiên nhiên, không ước muốn được gần với cuộc sống tự do, phóng khoáng của thiên nhiên thì chắc hẳn đã không có những lời hỏi tha thiết như thế. Nhưng lòng đam mê thiên nhiên ấy chỉ càng tô đậm thêm cho tình mẫu tử trong mỗi trò chơi tưởng tượng của con. Con diễn đạt những phát hiện dường như rất mới mẻ của mình bằng chính "ngôn ngữ của tự nhiên":
Con là mây và mẹ sẽ là trăng.
Con sẽ lấy đôi tay choàng lên người mẹ,
và mái nhà ta sẽ là bầu trời xanh thẳm.
hay:
Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ,
Con sẽ lăn, lăn, lăn mãi, cùng tiếng cười vỡ tan vào lòng mẹ.
Và không ai trên thế gian này biết chốn nào là nơi ở của mẹ con ta.
Vậy là con có thể tận hưởng niềm mê say vũ trụ khoáng đạt, bao la, kì thú ở trong chính tình mẫu tử quấn quýt, thân thương. Và nếu như những người sống trên mây mê mải chẳng biết đâu là lúc dừng, những người sống trong sóng phiêu diêu không biết nơi nao là bến bờ thì con, trong niềm hân hoan của trò chơi tưởng tượng vẫn có mái nhà xanh thẳm để chở che, vẫn có bến bờ kì lạ để neo đậu, có lòng mẹ là chốn vĩnh hằng. Trò chơi tưởng tượng kia cũng mang đậm màu sắc tượng trưng, hay chính là tượng trưng của tượng trưng! Có lẽ những kì thú của tình người mới là vô cùng, vô tận. Trong hưng phấn tột cùng của trò chơi tưởng tượng ấy "mẹ con ta" tới được chốn siêu nhiên, đạt được cái hằng tồn không hình hài: Và không ai trên thế gian này biết chốn nào là nơi của mẹ con ta. Cũng như không ai biết được lòng mẹ rộng nhường nào, và con đã tan vào lòng mẹ. Lòng mẹ, tình mẹ vô độ mênh mông. Đó là nơi trở về sau cuối, an nhiên.
Cái hay của bài thơ Mây và sóng là cái hay của "trò chơi tưởng tượng", cái hay của sức gợi những suy ngẫm chiều sâu, cái hay của những khả năng ý nghĩa từ những câu chuyện trẻ thơ hồn nhiên, trong suốt. Lối kết cấu song trùng, hệ thống hình ảnh tượng trưng trong mạch chảy liên tục của những dòng "thơ văn xuôi" cứ ánh lên theo khúc nhạc miên viễn của Mây và Sóng - sản phẩm tưởng tượng đặc sắc của Ta-go.
BẾN QUÊ
(Nguyễn Minh Châu)
I - GỢI Ý
1. Tác giả:
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930-1989) sinh tại quê gốc: làng Thôi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1972).
Vào các năm 1944-1945, Nguyễn Minh Châu học Trường Kỹ nghệ Huế. Năm 1945 ông tốt nghiệp Thành Chung. Tháng 1 năm 1950 ông học chuyên khoa Trường Huỳnh Thúc Kháng (Hà Tĩnh) và sau đó gia nhập quân đội theo học Trường Sỹ quan Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956 ông công tác tại Ban tham mưu tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961 ông theo học Trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962 về công tác tại phòng, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội.
- "Hoạt động văn học của Nguyễn Minh Châu khá phong phú và có những thành công đáng trân trọng. Chỉ riêng về lĩnh vực sáng tác, nhiều tác phẩm của ông đã trở thành đề tài tìm hiểu của hàng trăm bài báo, bài nghiên cứu và những chuyên luận khoa học trong và ngoài nước. Đọc lại những trang viết của ông, đọc lại những bài viết về ông, có thể thấy rằng: về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu còn tiềm ẩn nhiều vấn đề, nhiều gợi ý có khả năng hứa hẹn cho việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu ở những bình diện và phương pháp tiếp cận mới"(1) Nguyễn Trọng Hoàn - Nguyễn Minh Châu, về tác gia và tác phẩm - NXB Giáo dục, 2001.
. 
2. Tác phẩm:
- Tác phẩm đã xuất bản của Nguyễn Minh Châu gồm nhiều thể loại: Cửa sông (tiểu thuyết, NXB Văn học, 1967); Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, NXB Văn học, 1970); Dấu chân người lính (tiểu thuyết, NXB Thanh niên, 1972); Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 1974); Miền cháy (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1977); Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, NXB Văn học, 1977); Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 1981); Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1982); Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới, 1983); Đảo đá kì lạ (viết cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 1985); Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1987); Chiếc thuyền ngoài xa (tập truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới, 1987); Cỏ lau (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1989); Trang giấy trước đèn (tiểu luận phê bình, NXB Khoa học xã hội 1994); và nhiều bút ký, truyện ngắn khác đăng trên các báo.
Với những cống hiến xuất sắc của mình trong hoạt động văn học nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã được nhận: Giải thưởng Bộ Quốc phòng (năm 1984-1989); Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1988-1989); Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm 2000).
- Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên c ... n học Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Là nhà văn sở trường về truyện ngắn, từ sau năm 1975, sáng tác của Lê Minh Khuê đã bám sát những biến chuyển của đời sống, đề cập đến nhiều vấn đề bức xúc của xã hội thời đổi mới. Ngòi bút miêu tả tâm lí của Lê Minh Khuê khá sắc sảo, nhất là khi miêu tả tâm lí phụ nữ.
2. Tác phẩm:
- Tác phẩm đã xuất bản: Cao điểm mùa hạ (1978); Đoàn kết (1980); Thiếu nữ mặc áo dài xanh (1984); Một chiều xa thành phố (1987); Em đã không quên (1990); Bi kịch nhỏ (1993); Lê Minh Khuê - truyện ngắn (1994), Trong làn gió heo may (1998),...
Nhà văn đã được nhận: Giải thưởng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 (Tập truyện ngắn: Một chiều xa thành phố).
- Truyện Những ngôi sao xa xôi viết về ba cô gái thanh niên xung phong làm nhiệm vụ phá bom ở một cao điểm trong thời kì cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ đang diễn ra khốc liệt. Miêu tả các cô gái hằng ngày, hằng giờ đối mặt với hiểm nguy nhưng sức hấp dẫn của truyện không phải ở những chi tiết, sự kiện hồi hộp, nóng bỏng mà ở khả năng miêu tả đời sống tâm hồn con người khá sinh động, sâu sắc của tác giả.
3. Tóm tắt:
Tác phẩm là câu chuyện kẻ về cuộc sống và chiến đấu của ba nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn những năm chống Mĩ ác liệt nhất. Thao, Định, Nho là ba cô gái thuộc tổ "trinh sát mặt đường" với nhiệm vụ phá bom, lấp đường để đảm bảo sự an toàn cho những chuyến xe chở đạn dược và bộ đội vào chiến trường miền Nam. Công việc của họ là một ngày từ ba đến năm lần xông lên cao điểm sau những trận bom để lấp hố bom, san đường. Những lúc được thảnh thơi, họ lại trở về cái hang dưới chân cao điểm - ngôi nhà của họ. Ba cô gái với ba tính cách khác nhau, ba ý thích, lối sinh hoạt khác nhau nhưng đều có một điểm chung là rất dũng cảm, làm việc hết mình. Khi đối diện với hiểm nguy họ rất cứng cỏi, nhưng trong cuộc sống, giữa những giây phút yên bình hiếm hoi thì họ lại rất trẻ trung, tươi vui và yêu đời. Ba cô gái sống với nhau thân thiết như ba chị em ruột thịt. Khi Nho bị thương, Được và chi Thao rất lo lắng, họ đau như chính họ là người bị bom vùi. Câu chuyện có sự đan xen liên tục hai nội dung: cuộc chiến đấu quyết liệt với bom đạn và cuộc sống hồn nhiên, trẻ trung của ba nữ thanh niên xung phong.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Những ngôi sao xa xôi là một nhan đề lãng mạn, rất đặc trưng của văn học thời kháng chiến chống Mĩ. Rất gần với Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu ở ý nghĩa biểu tượng - từ đó cũng toả ra một thứ ánh sáng dịu dàng "mát mẻ như núi", cái ánh sáng ẩn hiện xa xôi, có sức mê hoặc lòng người. Đó là biểu tượng về sự ngời sáng của phẩm chất cách mạng trong những cô gái thanh niên xung phong Trường Sơn. Thao, Định, Nho hay Nguyệt, Quỳ của Nguyễn Minh Châu đều là những "mảnh trăng", những "ngôi sao xa" nơi cuối rừng Trường Sơn, đều sáng ngời vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Khai thác một đề tài quen thuộc đã làm nên nhiều tên tuổi lớn trên văn đàn nhưng với khả năng sáng tạo và hiện thực những ngày từng lăn lộn với chiến trường Trường Sơn, Lê Minh Khuê đã làm cho tác phẩm của mình có được một chỗ đứng vững vàng trong đội ngũ đông đảo những sáng tác trong kháng chiến chống Mĩ. 
Người kể chuyện đồng thời là nhân vật trong truyện, trực tiếp tham gia vào các diễn biến của sự kiện. Câu chuyện được phát triển theo hướng nhìn, điểm nhìn và dòng suy tư của Phương Định - cô gái Hà Nội còn rất trẻ, rất dịu dàng và cũng rất kiên trung. Việc lựa chọn điểm nhìn này đã giúp nhà văn đi sâu khai thác diễn biến tâm lí nhân vật (trong chiến đấu và trong sinh hoạt), từ đó làm ngời sáng phẩm chất tốt đẹp của họ. Đây chính là điểm thành công của nhà văn. Nhìn chung trong văn học chống Mĩ, các nhà văn thường ít chú ý đến việc khai thác tâm lí nhân vật, nhân vật chủ yếu được xây dựng bằng những hành động anh hùng. Cô Nguyệt của Nguyễn Minh Châu, "mảnh trăng" tiêu biểu, tập trung đầy đủ đến mức lí tưởng vẻ đẹp của người nữ thanh niên xung phong Trường Sơn nhưng lại thiếu hẳn chiều sâu tâm lí. Với Những ngôi sao xa xôi, Lê Minh Khuê đã tập trung chú ý đến việc thể hiện tâm lí nhân vật bên cạnh việc miêu tả những hành động anh hùng của họ. Để nhân vật tự bộc lộ mình bằng hành động và suy nghĩ, nhà văn đã tạo nên giá trị chân thực cho hình tượng nghệ thuật. Nỗi buồn, niềm vui, nỗi nhớ và cả những suy tư của nhân vật được thể hiện rất tự nhiên và chân thực. Điểm nhìn trần thuật ngôi thứ nhất đã xoá nhoà khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật khiến cho câu chuyện gần gũi bình dị và đời thường hơn. Trần thuật từ điểm nhìn ngôi thứ nhất để tạo cho mạch truyện tự phát rất thoải mái, nhân vật hiện lên tự nhiên và sinh động hơn, tạo cho những nữ nhân vật trong truyện một vẻ đẹp bình dị mà thật anh hùng. Kể về những chuyện sống chết, chuyện hiểm nguy bằng một giọng điệu rất thoải mái: "Thần Chết là một tay không thích đùa...", "việc nào cũng có cái thú của nó", "đứa nào cũng leo tót lên trọng điểm... chỉ khổ đứa phải trực điện thoại trong hang". Không cần lí tưởng hoá, qua điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện, nhân vạt vẫn hiện lên với đầy đủ phẩm chất anh hùng và đầy tính thuyết phục. Việc lựa chọn điểm nhìn như vậy đã tạo nên thành công trong nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật thể hiện nét độc đáo trong phong cách truyện ngắn Lê Minh Khuê. Giữa sự ác liệt của chiến tranh, vẻ đẹp của con người đã toả sáng. Phần lớn những đội viên thanh niên xung phong ở Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ đều còn rất trẻ. Khi cả miền Bắc dồn sức cho miền Nam đánh giặc với khí thế "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", với tinh thần "đường ra trận mùa này đẹp lắm" thì thế hệ trẻ thanh niên nam nữ miền Bắc đã có mặt trên mọi tuyến đường của Tổ quốc. Sức trẻ, lòng yêu nước, khát vọng hoà bình đã tạo nên sức mạnh, tạo nên chất trữ tình cho cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng của cả dân tộc. Vì thế mới có những vần thơ: "Rất trữ tình là nhịp bước hành quân... Toả nắng cho thơ là triệu ánh mắt anh hùng". Thao, Nho và Định là ba trong hàng triệu thanh niên Việt Nam ưu tú ấy. Họ có sức trẻ và lòng yêu nước. Nhà văn đã kết hợp phẩm chất anh hùng với sự bình dị để tạo nên hình tượng nghệ thuật thật đẹp về những cô thanh niên xung phong. Họ lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không sợ chết, họ sẵn sàng hi sinh để con đường không bị đứt mạch. Trong chiến đấu họ can trường bao nhiêu thì trong cuộc sống sinh hoạt họ hồn nhiên tươi trẻ bấy nhiêu. Họ luôn thích hát, thích vui đùa, thích nhai kẹo trong những giây phút bình yên hiếm hoi giữa những loạt bom tàn khốc. Định đã hồn nhiên kể vể sự tàn khốc của chiến tranh, về công việc hàng ngày rất nguy hiểm của ba người, và cũng tự nhiên kể về những thói quen, những thú vui đời thường của họ. Ba người nữ anh hùng ấy rất trẻ trung trong cuộc sống, thậm chí rất yếu đuối: Chị Thao "thấy máu, thấy vắt là nhắm mắt lại, mặt tái mét", Định thì thích hát, thích làm điệu, Nho thì "đòi nhai kẹo", dưới cơn mưa đá cả ba "vui thích cuống cuồng", họ tận hưởng cơn mưa hồn nhiên như chưa hề nghe thấy bom rơi đạn nổ. Sự khốc liệt của chiến tranh đã tôi luyện những tâm hồn vốn nhạy cảm yếu đuối của họ thành bản lĩnh kiên cường của người anh hùng. 
Nhà văn đã rất thành công trong việc thể hiện tâm lí nhân vật. Qua dòng suy tư của Định, người đọc không chỉ thấy sự toả sáng của phẩm chất anh hùng mà còn hình dung được thế giới nội tâm phong phú của những cô gái rất trẻ trong cuộc chiến của dân tộc. Những con người ấy mang vào Trường Sơn cả tuổi thanh xuân với bao nhiêu ước mơ, khát vọng, với những nỗi nhớ gia đình, quê hương khôn nguôi. Trận mưa đá đột ngột giữa đường Trường Sơn đã làm sống dậy kỷ niệm ngọt ngào của tuổi ấu thơ... Chiến tranh đã không thể cướp đi niềm tin yêu cuộc sống, niềm lạc quan của những cô gái trẻ. Không lí tưởng hoá nhân vật đến mức bọc nhân vật trong bầu không khí "vô trùng" nhưng ba nữ nhân vật của Lê Minh Khuê vẫn hiện lên với đầy đủ những phẩm chất anh hùng mà rất đáng yêu của những nữ thanh niên xung phong Trường Sơn. Câu chuyện được phát triển theo kết cấu dòng tâm lí và tư duy đồng hiện (ở cấp độ đơn giản) nên chỉ với dung lượng một truyện ngắn mà cuộc sống và chiến đấu của đội nữ thanh niên xung phong được tái hiện đầy đủ và tròn trịa. Ba con người khi chiến đấu là một khối thống nhất, đó là sự dũng cảm, khi sống cuộc sống đời thường trong những phút giây bình yên hiếm có của Trường Sơn họ lại là ba con người với ba tính cách khác nhau. Họ là họ, họ còn là cả Trường Sơn, là biết bao cô gái giống họ đều đang nằm trong những hang núi Trường Sơn để chờ đợi, để giữ cho tuyến đường Trường Sơn không một ngày bị đứt mạch.
Điểm khác biệt và cũng là thành công của truyện ngắn này so với những tác phẩm cùng đề tài chính là ở nghệ thuật trần thuật. Giọng văn sinh động, trẻ trung với lối diễn đạt tự nhiên đã tạo nên sức cuốn hút với bạn đọc. Tác giả đã rất hiện đại trong việc sử dụng linh hoạt các dạng cũ pháp. Những câu văn ngắn, câu dạng đặc biệt được đan xen linh hoạt trong các đoạn văn vừa có sức tái hiện dồn dập, khẩn trương trong việc phá bom của các cô gái vừa tự nhiên, sinh động khi miêu ảt tính cách của họ. Trong đoạn văn miêu tả trận đánh bom, tác giả sử dụng một loạt câu ngắn với cấu trúc giản lược tối đa: "Không hiểu vì sao mình gắt nưa. Lại một loạt bom. Khói vào hang... và bom...". Trong tác phẩm, tác giả sử dụng rất ít những câu văn dài, nếu có thì đó lại là những câu văn mang màu sắc triết lí rất rõ: "Không có gì cô đơn và khiếp sợ hơn khi bom gào thét xung quanh mà không nghe một tiếng trả lời nào dưới đất. Dù chỉ một tiếng súng trường thôi, con người cũng thấy mênh mông bên mình một sự che chở đồng tình". Tác giả rất độc đáo trong việc miêu tả với những câu văn được sắp xếp theo trật tự bất thường, nhiều khi lộn xộn, không theo lô gích thông thường của tư duy. "Không có gió... dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh... vĩnh cửu". Đó là tâm trạng khi Định chờ bom nổ. Tuy chưa hiện đại như nghệ thuật trần thuật theo dòng ý thức của Bảo Ninh trong Thân phận của tình yêu nhưng tác phẩm đã có một sự cách tân lớn trong nghệ thuật trần thuật. Giọng văn tự nhiên, cuốn hút với kỹ thuật trần thuật hiện đại đã làm nên thành công và vẻ đẹp riêng cho Những ngôi sao xa xôi.
Nối tiếp bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến của dân tộc, một bản anh hùng ca đầy âm hưởng sử thi, với tài năng, tâm huyết và sự từng trải của mình, Lê Minh Khuê đã góp thêm một nốt nhạc rất đẹp. Hình tượng về những nữ thanh niên xung phong Trường Sơn không hiếm hoi trong văn học chống Mĩ nhưng với những sáng tạo riêng rất hiện đại của mình, tác giả Những ngôi sao xa xôi đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, giàu mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, sự hi sinh rất hồn nhiên, lạc quan của những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kháng chiến chống Mĩ.

Tài liệu đính kèm:

  • doctac_pham_chuyen_thi_vao_lop_10_mon_van_phan_6.doc