TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM TRẠNG NHÂN VẬT THÚY KIỀU CỦA NGUYỄN DU QUA HAI ĐOẠN TRÍCH:
1. Mã Giám Sinh mua Kiều
2. Kiều ở lầu Ngưng Bích
A. Đặt vấn đề:
I.Cở sở lí luận:
Một tác phẩm văn học sống mãi với thời gian và hấp dẫn với người đọc qua nhiều thế hệ là một tác phẩm có giá trị về nội dung và nghệ thuật. Xét về giá trị nội dung tư tưởng của một tác phẩm phải đáp ứng được yêu cầu của thời đại, con người, tác phẩm thể hiện được những ước mơ, nguyện vọng chính đáng và trong sáng của con người, thông qua đó người đọc nhìn thấy tác phẩm những giá trị tinh thần mà văn chương đưa lại, chính nhờ chức năng nhận thức của giáo dục, thẩm mĩ, giao tiếp. Song song với giá trị nội dung thì hình thức nghệ thuật đã đóng góp rất lớn trong việc thể hiện được nội dung sáng tác, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, khắc họa sinh động hình tượng nghệ thuật và góp phần thể hiện tình cảm khát vọng của người sáng tạo tác phẩm. Vì vậy vấn đề hình thức tác phẩm dừng lại yếu tố ngôn ngữ, kết cấu và hình tượng cũng như bút pháp của tác giả. Hình thức tác phẩm độc đáo hay không ngoải yêu cầu chung của vấn đề xây dựng tác phăm, thì tài năng, phong cách nhà văn quyết định. Xây dựng tác phẩm văn học ở góc độ hình thức thì yêu cầu rất cao ở các tính sáng tạo chủ quan. Trong các yếu tố của các hình thức nghệ thuật tác phẩm thì hình thức nghệ thuật và thế giới nghệ thuật là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của tác phẩm. Hình thức nghệ thuật là sáng tạo bộc lộ tài năng của nhà văn đồng thời thể hiện rõ sâu sắc nhất tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Sự cảm nhận của phiến diện hay toàn diện, sâu sắc hay hời hợt của nhà vănvới hiện thực khách quan.
Như vậy tác phẩm văn học bao giờ cũng có hai giá trị ( giá trị nội dung tư tưởng và giá trị hình thức). Hình thức nghệ thuật chuyển tải những giá trị nội dung tác phẩm. Hình thức nghệ thuật càng sinh động, độc đáo, hấp dẫn càng làm tăng giá trị nội dung.
Hiểu và nắm được những yêu cầu trên đây thì việc thực hiện tìm hiểu khám phá tác phẩm mới đầy đủ, sâu sắc và toàn diện.
TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM TRẠNG NHÂN VẬT THÚY KIỀU CỦA NGUYỄN DU QUA HAI ĐOẠN TRÍCH: 1. Mã Giám Sinh mua Kiều 2. Kiều ở lầu Ngưng Bích A. Đặt vấn đề: I.Cở sở lí luận: Một tác phẩm văn học sống mãi với thời gian và hấp dẫn với người đọc qua nhiều thế hệ là một tác phẩm có giá trị về nội dung và nghệ thuật. Xét về giá trị nội dung tư tưởng của một tác phẩm phải đáp ứng được yêu cầu của thời đại, con người, tác phẩm thể hiện được những ước mơ, nguyện vọng chính đáng và trong sáng của con người, thông qua đó người đọc nhìn thấy tác phẩm những giá trị tinh thần mà văn chương đưa lại, chính nhờ chức năng nhận thức của giáo dục, thẩm mĩ, giao tiếp. Song song với giá trị nội dung thì hình thức nghệ thuật đã đóng góp rất lớn trong việc thể hiện được nội dung sáng tác, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, khắc họa sinh động hình tượng nghệ thuật và góp phần thể hiện tình cảm khát vọng của người sáng tạo tác phẩm. Vì vậy vấn đề hình thức tác phẩm dừng lại yếu tố ngôn ngữ, kết cấu và hình tượng cũng như bút pháp của tác giả. Hình thức tác phẩm độc đáo hay không ngoải yêu cầu chung của vấn đề xây dựng tác phăm, thì tài năng, phong cách nhà văn quyết định. Xây dựng tác phẩm văn học ở góc độ hình thức thì yêu cầu rất cao ở các tính sáng tạo chủ quan. Trong các yếu tố của các hình thức nghệ thuật tác phẩm thì hình thức nghệ thuật và thế giới nghệ thuật là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của tác phẩm. Hình thức nghệ thuật là sáng tạo bộc lộ tài năng của nhà văn đồng thời thể hiện rõ sâu sắc nhất tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Sự cảm nhận của phiến diện hay toàn diện, sâu sắc hay hời hợt của nhà vănvới hiện thực khách quan. Như vậy tác phẩm văn học bao giờ cũng có hai giá trị ( giá trị nội dung tư tưởng và giá trị hình thức). Hình thức nghệ thuật chuyển tải những giá trị nội dung tác phẩm. Hình thức nghệ thuật càng sinh động, độc đáo, hấp dẫn càng làm tăng giá trị nội dung. Hiểu và nắm được những yêu cầu trên đây thì việc thực hiện tìm hiểu khám phá tác phẩm mới đầy đủ, sâu sắc và toàn diện. II. Thực tiễn bài dạy: Trong chương trình môn học THCS, SGK ( sách giáo khoa ) đã chọn giảng về tác phẩm kiệt tác truyện Kiều và Nguyễn Du. Vì đây là tác giả lớn nhất, nổi tiếng của văn học Việt Nam. Thông qua Truyện Kiều đã góp phần cho nền văn học nước nhà lên đỉnh cao nghệ thuật của văn học Việt Nam nói chung, đặc biệt là văn học Trung Đại nói riêng. Bởi vì nó là đỉnh cao của tinh thần nhân đạo trong xu hướng văn học mang tư tưởng nhân đạo. Như vậy với Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở nên một thiien tài văn chương, có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Mặc dù Truyện Kiều của Nguyễn Du có yếu tố vay mượn, vay mượn từ đề tài, cốt truyện, hình tượng nhân vật, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân- Trung Quốc. Song sự sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn. Ông đã biết sáng tạo những yếu tố ngôn ngữ, sáng tạo ở việc xây dựng hình tượng nhân vật sao cho phù hợp với tinh thần thời đại mà tác giả đã và đang sống, phù hợp với tâm lí của con người Việt Nam đón nhận tác phẩm. Về ngôn ngữ và thể loại thì Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng thể loại thơ truyền thống, thuần nôm, để giải quyết một số vấn đề lớn của thời đại đầy biến cố. Nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, tự nhiên, theo diễn biến của sự việc con người. Song tài năng của Nguyễn Du được khẳng định ở bút pháp tả cảnh, tả người. Những cảnh và người được miêu tả trong tác phẩm có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc. Đặc biệt khi khai thác đặc điểm bản chất của sự việc – nhân vật thì cũng là người hơn ai hết khám phá diễn tả rất hợp lí, sâu sắc và tinh tế đời sống nội tâm của hình tượng nhân vật. Bởi vì Nguyễn Du biết khám phá mọi tình huống, mọi nhân vật tâm lí, theo cách diễn biến riêng biệt, không có lần nào giống lần nào. Nói tóm lại chương trình đưa vào giảng các đoạn trích của Truyện Kiều - Nguyễn Du ở trường THCS là phù hợp. B.Giải quyết vấn đề: 1.Những vấn đề cần khám phá và chú ý: Truyện Kiều là đỉnh cao cùa ngôn ngữ văn học dân tộc. Nguyễn Du là nhà nghệ sĩ ngôn ngữ bậc thấy. Phong cách ngôn ngữ trong truyện Kiều rất đa dạng, điều này cũng được bộc lộ phần nào trong các đoạn trích ở SGK. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu các đoận thơ, cần hết sức chú ý đến các sắc thái riêng của ngôn ngữ nghệ thuật ở mỗi đoạn và cả sự biến đổi về ngôn từ, giọng điệu trong một đoạn. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà thơ đã bình giảng rất kĩ về nhiều chữ nghĩa đặc sắc trong truyện Kiều. Một số chữ từng là đề tài tranh luận, và đến nay vẫn còn là những cách hiểu khác nhau. Không cần đi quá sâu vào những điểm tranh luận về chữ nghĩa, nhưng giáo viên cũng cần biết các ý kiến ấy trong khi đưa ra cách hiểu của SGK. Một trong những đặc điểm của ngôn ngữ Truyện Kiều là sử dụng rộng rãi cách nói ước lệ, sử dụng nhiều ẩn dụ, tượng trưng, nhiều điển cố, điển tích. Trong quan niệm của thơif Trung đại thì đĩều đó chứng tỏ sự uyên bác, điêu luyện của tác giả. Nhưng với người đọc ngày nay thì đây là một khó khăn, thậm chí là một rào cản khi tiếp nhận tác phẩm cổ điển - sự ngăn cách không chỉ ở phạm vi ngôn từ mà còn là cơ tầng văn hóa. Để khắc phục phần nào khó khăn này của học sinh, nhất thiết phải lưu ý các em đọc kĩ các chú thích và đọc nhiều lần đoạn thơ được học. Giảng dạy tác giả Nguyễn Du - Truyện Kiềulà yêu cầu cho học sinh cảm thụ sâu sắc về con người - cuộc đời- sự nghiệp của Nguyễn Du, những sáng tác của ông mà đỉnh cao là Truyện Kiều. Khi giảng đến phần này thì như chúng ta biết con người và sự nghiệp sáng tác của ônng không đứng trên lập trường, quan điểm của giai cấp mình, mà đứng trên quan điểm của nhân dân để sáng tác. Để rồi gửi gắm và tâm sự vào tác phẩm văn chương. Giáo viên cần lí giải cho học sinh hbiểu hiện tượng văn học này cũng phức tạp. Cho nên học sinh cần phải tiếp cận với tác phẩm nhiều hơn, bởi vì tác phẩm Truyện Kiều có giá trị hiện thực lớn, giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là: giúp cho học sinh nắm được: Xã hội trong Truyện Kiều là một xã hội Trung Quốc ( Triều Minh ). Xã hội ấy có nét tương đồng với thực tại xã hội Việt Nam thời Nguyễn Du sống. Vì thế bộ mặt quan lại, tay sai, sai nha, buôn bán thịt người, tất cả vì thế lực đồng tiền đã làm đảo điên cả xã hội – con người. Đó cũng chính là hình ảnh thực của xã hội Việt Nam ở thế kỉ XVIII. Thân phận con người lương thiện, người vô tội bị vùi dập và chà đạp. Cho nên giá trị nhân đạo là linh hồn của tác phẩm.. Nó tạo nên tác phẩm trường tồn với thời gian. Giá trị nhân đạo của tác phẩm chính là lòng yêu thương, tôn trọng của con người, đề cao khát vọng sống công lý và tình yêu. Làm nên giá trị này thì Nguyễn Du có sự đồng cảm sâu sắc với hình tượng của nàng kiều. Sức sống của tác phẩm là yếu tố nghệ thuật. Vũ lực khó hơn là khám phá thiên tài trong việc diễn tả những nét tâm trạng, tâm lý của nhân vật trung tâm. Nàng Kiều ở các đoạn để học rất phong phú, phức tạp. Từ những băn khoăn trên người dạy phải gợi tìm phương pháp tốt nhất, sát với đối tượng để học sinh nắm được nội dung bài chính xác, tinh tế ở hai đoạn trích: Mã Giám Sinh mua Kiều - Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đối với đoạn trích đã được học ở trong nhà trường THCS yêu cầu phảitìm hiểu những nét tâm trạng, tâm lý của nhân vật Kiều trước những hoàn cảnh khác nhau. Từ đó đánh giá đúng tài năng của Nguyễn Du trong viẹc thể hiện đời sống nội tâm cùa nhân vật và sự thông cảm, đồng cảm của Nguyễn Du đối với hình tượng Kiều. Vì thế giáo viên cần xác định những nội dung cụ thể để hướng cho học sinh cảm thụ được nhân vật trong tác phẩm. Đặt nó trong mối quan hệ nội dung: Đồng thời hoàn cảnh, tình thế chi phối, ảnh hưởng đến nội tâm của nhân vật. Khi tìm hiểu nhân vật, phân tích làm sao cho vẽ đẹp hình thức bừng sáng ẩn ý bên trong. Đó là những yếu tố nghệ thuật mà nhà văn miêu tả nhân vật. Làm sống dậy hình tượng nghệ thuật, giúp học sin như chứng kiến, thâm nhập trong đó, có thể cảm nhận và hiểu dược con người ,cảnh vật trong tác phẩm. Cho thấy được nổi lòng, thái độ của tác giả đặt sau cách dùng từ, miêu tả và các biện pháp nghệ thuật khác. Cái nhìn của nhà văn đã phát hiện và diễn tả đời sống nội tâm, tâm lý của nhan vật. Đối với Truyện Kiều dạy cho học sinh : Truyện Kiều đã khắc họa thành công hình tượng Kiều người con gái có tài, có sắc nhưng số phận đầy bi thảm. Trong đoạn trường 15 năm lưu lạc, Kiều từ bất hạnh này đến bất hạnh khác. Qua hai đoạn trích ( Mã Giám Sinh mua Kiều - Kiều ở làu Ngưng Bích ) dẫ thể hiện thành công vềthủ pháp nghệ thuật miêu tả tâm trạng của Nguyễn Du. Ông để cho nhân vật tự bộc lộ cản xúc của mình. Ta cũng biết rằng mỗi tình huống khác nhau thì sắc thái cám xúc những nết tâm trạng cũng khác nhau: Ví du Kiềi trong đoạn “ Mã Giám Sinh mua kiều’’đau đớn tột độ cho nên tác giả để cho nàng là hiện thân của nổi khổ đau câm lặng. Hoặc “ Kiều ở lầu Ngưng Bích “ lại diễn đạt khác, khác ở ý tưởng. Kiều đau đớn xót xa với cảnh buồn đau. Vì vậy, Nguyễn Du mượn bút pháp cảnh ngụ tình, để miêu tả. Mỗi cảnh vật hiện lênlà nổi buồn đau của Kiều. Từ đó khi dạy hai đoạn trích “ Mã Giám Sinh mua Kiều” và “ Kiều ở lầu Ngưng Bích “giáo viên hướng dẫn cho học sinh hiểu khái quát yếu tố nghệ thuật khi nhà văn miêu tả về nhân vật. Trước hết là ngoại hình của nhan vật ( dáng vẽ, y phục, đi đứng, lời ăn tiếng nói). Khi nói đến điểm này thì thiên tài Nguyền Du thể hiện rõ trong việc khắc họa nhân vật phẩn diện ( Mã Giám Sinh ). Vì ngôn ngữ nhân vật góp phần khắc họa được tính cách nhân vật. Đó là ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”” Nguyễn Du để cho Kiều trực diện với thiên nhiên, đối diện với lòng mình. Cảnh vật được miêu tả rộng lớn, bát ngát. Nó góp phần bọc lộ tâm trạng cô đơn , buồn tủi biết bao, ngổn ngang tơ lòng của Kiều. Tiếp đó là đời sống nội tâm- Những điều con người không nhìn thấy dược. Nó được diễn tả qua suy nghĩ, qua ngôn ngữ nhân vật. Đời sống nội tâm được thể hiện là những uẫn khúc trong người không nói ra. Ví dụ “ Mã Giám Sinh mua Kiều”. Nỗi mình thêm tức nỗi nhà Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng Thể hiện tâm trạng Kiều đau đớn,xót xa. Nhờ các yếu tố đó mà tìm hiểu, đánh giá được sâu sắc và toàn diện. Ngoài ra giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh thấy không phải nhân vật văn học nào cũng xây dựng trên những yếu tố đó, mà chỉ sử dụng một số hình thức cơ bản để làm cho nhân vật sinh động. Vjf thế khi tìm hiểu nhân vật không nhất thiết theo lý thuyết được chỉ ra, mà cần phân tích được yếu tố nghệ thuật của nhà văn khi miêu tả nhân vật. Điều quang trọng và khó nhất khi phân tích là phân tích đời sống nội tâm,những điều mà con người không nhận thấy được. Những rung động, cảm xúc tâm trạng trước hoàn cảnh được thể hiện bằng suy nghĩ, vui, buồn thông quaủa nhà văn đối với nhân vậtgôn ngữ,cách miêu tả người, cảnh được thể hiển trong đoạn trích nhằm thể hiện nội tâm nhân vật. Cái nhìn của nhà văn để phát hiện, diễn tả cảm xúc tâm trạng nhân vật. Muốn hiểu nhà văn khai thác, diễn tả những sắc thái , cảm xúc phong phú, tinh tế hay không thì phải chú ý vào tầm nhìn của nhà văn đối với nhân vật. tức là nhận thức, tư tưởng, là thái độ, tình cảm của nhà văn với nhân vật. Phải chỉ cho học sinh thấy rằng tác phẩm là con đẻ tinh thần của nha văn, yêu tố hình tượng nghệ thuật là yếu tố quan trọng nhất của tác phẩm. Nhờ hình tượng mà nhà văn gởi gắm nhận thức tư tưởng ,tình cảm, khát vọng và ước mơ, nhữnh quan điểm vềthaamr mỹ đối với xã hội nhất định. Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều cũng vậy- ngoài giá trị hiện thực sâu sắc thì tác phẩm còn mang giá trị nhân văn cao cả. Tác phẩm là lời tố cáo đanh thép về vã hội phong kiến Việt Nam ở thế kỷ XVIII. Thời đại Nguyễn Du giống như tia nắng cuối chiều. Đây là thời đại suy tàn. một xã hội mà quan lại, tay sai buôn thịt bán người, thế lực của đồng tiền.đã trói buộc con người lương thiện. II Biện pháp thực hiện: Từ những căn cứ trên giáo viên hướnh dẫn cho học sinh tìm hiểu hình tượng Kiều qua hai đoạn trích : Mã Giám Sinh mua Kiều”, “ kiều ở lầu Ngưng Bích” Ngữ Văn 9- tập 1. Có nhiều biện pháp để thực hiện tìm hiểu miêu tả tâm trạng Kiều. Những biện pháp này được cần phối hợp, hợp lý, linh hoạt. Cụ thể; Củng cố ôn tập kiến thức đâ học vạ kiền thức trước đó qua các đoạn trích; Chị em Thúy Kiều. ôn lại tóm tắt tác phẩm. Kiều trải qua nhiều đoạn trường, tình huống éo le, Kiều có tâm trạng khác biệt. Tìm hiểu xuất xứ đoạn trích đã học. Chủ yếu tìm hiểu đoạn đời và tâm trạng trước đó.Trước khi phân tích mỗi đoạn cần giúp cho học sinh nắm được vị trí đoạn thơ trích trong tác phẩm. Việc này chẳng những cần thiết cho sự tìm hiểu đoạn trích mà còn giúp cho học sinh nắm vững cốt truyện. Các đoạn giảng dược sắp xếp theo trình tự trước sau trong tác phẩm, riêng đoạn “ Mã Giám Sinh mua Kiều” trước đây xếp vào loại bài độc thêm nên có sự đảo , có liên quan trực tiếp đến đoạn trích, cũng cần nhắc lại để học sinh nắm được,từ đó mới có thể hiểu đúng các chi tiết của đoạn trích ( ví dụ: Tình cảm của Kiều ở nhà bà Tú Bà trước khi đưa ra lầu Ngưng Bích, những sự kiện về mối quan hệ giữa Thúc Sinh, Thúy Kiều, Hoạn Thư liên quan đến màn báo ân, báo oán ). Yêu cầu học sinh đọc diễn cảm đoạn trích hoặc diễn xuôi đoạn trích. Đọc diễn cảm là một trong những kỹ năng cần rèn luyện cho học sinh. Nhưng nếu xét về đặc trưng của bộ môn Văn thì đọc diễn cảm được coi là một phương pháp phân tích bài văn. Đọc đúng, đọc diễn cảm là công việc để học sinh bước đầu càm thụ bài văn về mặt cảm tính, làm chiếc cầu nối cho việt ddi sâu vào bản chất của hình tượng văn học. Ví dụ như : Kiều ở lầu Ngưng Bích yêu cầu cách độc như sau: Đây là đoạn truyện thơ đậm màu sắc trữ tình, đọc với giọng đọc biểu lộ nội tâm của nàng Kiều, lúc thì buồn bã đau xót, lúc thì nhớ nhung da diết, lúc thì buồn cô đơn đến rợn ngợp, lúc thì hoảng hốt sợ hải, vô vọngĐối với giáo viên, hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm rồi đọc mẫu chính là bước đầu cảm thụ bài văn ở giai đoạn trực quan sinh động, gây dạng khêu gợi tưởng tượng, óc liên tưởng, cảm xúc, rất cần thiết cho niệc cảm thụ về sau. Phân tích: Cho học sinh nắm chắc ý nghĩa nhan đề của đọan trích thông qua nội dung đoạn trích với”Mã Giám Sinh Mua Kiều”:Tâm trạng Kiều đau sót đến câm lặng không nói, không rằng. Mỗi bước đi là mấy hàng lệ rơihay khi đã vào lầu Ngưng Bích thì tâm trạng ngổn ngang tơ lòng. Nhìn cảnh chua xót nhớ về người yêu và cha mẹ. Đồng thời trỡ về lòng mình thì buồn đau đến nhường nào. Khai thác các chi tiết nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Thuý Kiều. Thể hiện tài năng của Nguyễn Du. Đó là giảng từ ngữ, phân tích sắc thái ý nghĩa tính biểu cảm của từ ngữ, đưa đến cảm hiểu được tâm trạng của nhân vật. + “Mã Giám Sinh mua Kiều”: tác giả để cho nhân vật Kiều hành động như cái máy vô tri vô giác. Không nói một lời nào song qua hình dáng Kiều cũng thấu hiểu nỗi lòng của Kiều đau khổ đến câm lặng .Rõ ràng trong cuộc mua bán này tài hoa hoàn toàn thua cuộc +Kiều ở lầu Ngưng Bích: Toàn bộ đoạn trích là tâm trạng , tâm trạng đó mở ra từ xa đến gần ,từ ngoại cảnh đến nợi tâm diễn ra hợp lô-gic .Trời đất càng bao la thì con người càng cô đơn, bẽ bàng; Cảnh đẹp nhưng lòng người buồn vô hạn. Để cho nhân vật đối diện với thời gian, với không gian “ Chân mây, cửa biển, thuyền, ngọn cỏ, ngọn nước, hoa trôi, bèo dạt” Tất cả các chi tiết ấy vừa thực vừa ảo ảnh, là sắp tàn; Mỗi cảnh là một nỗi buồn thê lương. -Giáo viên có thể dựng lại hình ảnh, cảnh tượng giúp học sinh thâm nhập vào hình tượng tác phẩm, như sống, như chứng kiến sự việc, sự vật, tâm trạng con người Kiều qua đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều. -Đọc diễn cảm để bình, vừa đọc vừa suy nghĩ, vừa đọc vừa tưởng tượng vừa suy nghĩ làm được như vậy thì việc cảm thụ của bài văn rất thuận lợi. Khi phân tích các em có thể phát hiện được những nét độc đáo, rung cảm, cảm thụ sâu sắc hơn được thể hiện rõ nét nội tâm nhân vật qua các câu thơ có nhạc đệm như phần đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích. - Hoặc diễn xuôi những đoạn thơ Mã Giám Sinh mua Kiều. Từ “ Nỗi mình.như mai” hiểu thêm tâm trạng của Kiều. -Một phương pháp điển hình trong nghệ thuật khắc họa tâm trạng nhân vật Kiều là: Đặt nhân vật vào hoàn cảnh điển hình, Kiều là nhân vật được khắc họa đạt nhất trong bút pháp đó. Mã Giám Sinh mua Kiều, nhân vật Kiều với tâm trạng đau xót, đặt trong hoàn cảnh Kiều hoàn toàn tự nguyện bán mình cứu cha và em. -Kiều ở lầu Ngưng Bích tâm trạng Kiều đau buồn vì không giữ lời thề với Kim Trọng. Bị lừa đưa về lầu xanh mất trinh với Mã Giám Sinh Sau đó giáo viên chốt lại mạch cảm xúc: Toàn bộ đoạn thơ là bức tranh tâm trạng nhiều vẻ của nàng Kiều trong những tháng ngày sống ở lầu Ngưng Bích- khi thì cô đơn, buồn tủi, lúc thì nhớ nhung đau xót, lúc thì buồn bả lo sợ, hãi hùng được Nguyễn Du miêu tả hết sức tinh tế, chính xác. Nguyễn Du - một tấm lòng thương đời, thương người vô hạn. Ông như nhập vào nhân vật cho nên mới miêu tả những vần thơ thống thiết; Nêu được suy nghĩ trăn trở, những cảm xúc, tâm trạng trước hoàn cảnh éo le này. Tài năng của Nguyễn Du trong việc diễn tả tâm trạng nhân vật phong phú, đa dạng chứng tỏ Nguyễn Du biết đặt nhân vật vào tình huống mới; không có tâm trạng nào giống tâm trạng nào. Bên cạnh đó tác giả làm sống dậy hình tượng nghệ thuật giúp người học như được chứng kiến được nhập thân trong đó, từ đấy có thể cảm và hiểu được cuộc sống, con người trong tác phẩm cung vui, cùng buồn với con người, cảnh vật trong tác phẩm III. Kết quả thực nghiệm: Qua những năm giảng dạy bản thân thông qua các tiết kiểm tra kết quả như sau: ? Nỗi lòng của Kiểu trước cảnh thiên nhiên được bộc lộ ra sao? Tại sao nhà thơ lại viết: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng SỐ HỌC SINH ĐÚNG SAI CHẤP NHẬN ĐƯỢC KHÔNG TRẢ LỜI ĐƯỢC 59 75% 0% 25% 0% ? Đọc lại tám câu thơ cuối của đoạn trích. Nghệ thuật nổi bật của đoạn thơ này là gì. Tác dụng của nó trong việc biểu đạt nội dung ra sao? SỐ HỌC SINH ĐÚNG SAI CHẤP NHẬN ĐƯỢC KHÔNG TRẢ LỜI ĐƯỢC 59 73% 0% 27% 0% ? Lời độc thoại “ Buồn trông” Lặp đi lặp lại trong đoạn thơ này, theo em có tác dụng gì trong các tác dụng sau đây: Diễn tả nỗi buồn chồng chéo kéo dài. Gợi day dứt về nỗi bất hạnh trong tâm hồn con người. Tạo thành ca khúc nội tâm có sức vang vọng trong lòng người đọc. Cả A, B, C. SỐ HỌC SINH ĐÚNG SAI CHẤP NHẬN ĐƯỢC KHÔNG TRẢ LỜI ĐƯỢC 59 82% 0% 18% 0% ? Khi Kiều chấp nhận đem mình ra làm một món hàng để Mã Giám Sinh mua. Trong cảnh ngộ ấy, hình ảnh Kiều hiện lên chân thực, cụ thể, sinh động. Em hình dung dáng vẻ, tâm trạng Kiều như thế nào qua đoạn thơ: Nỗi mình thêm tức nỗi nhà Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai Số học sinh Đúng Sai Chấp nhận được Không trả lời được 59 77% O% 23% O% ?. Cảm nhận của em về hình ảnh Kiều qua hai đoạn trích:”Mã Giám Sinh mua Kiều”, “ Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Số học sinh Đúng Sai Chấp nhận được Không trả lời được 59 80% O % 20 % O % Nhận xét: Sau khi học xong hai đoạn trich “Mã Giám Sinh mua Kiêù “,Kiều ở lầu Ngưng Bích”, mặc dù vẫn còn một số em chưa nắm thật chắc nội dung, nghệ thuật cũng như những” điểm bút” nghệ thuật. Nhưng trên tổng thể thì đa số học sinh về cơ bản đã có năng lực cảm thụ, phân tích đánh giá nhân vật, hiểu và đồng cảm sâu sắc về tâm trạng Kiều. Điều đó cho thấy: nếu được hướng dẫn chuẩn bị kỷ ; đồng thời nếu được khêu gợi, được khích lệ đúng hướng, đúng đối tượng, nắm sâu, hiểu nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Kiều của Nguyễn Du. C. Kết thúc vấn đề. Với một nghệ sỹ, văn chương bao giờ cũng là sự ký thác. Cũng là nhà thơ sinh ra trong thời hoàng hôn của chế độ xã hội đang tàn, điều gửi gắm ấy càng sâu sắc vào trong tác phẩm.Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm lớn, vì vậy tâm sự, tâm tính càng lớn. Tâm sự nỗi niềm ấy là một bi kịch nhưng nó là một bản tình ca mà tình yêu của nhà thơ tạo ra giai điệu. Từ thực tế dạy văn đã có, giảng dạy văn học cổ(đặc biệt đánh giá nhân vật dưới góc độ nội tâm, tâm lý, tâm trạng) lại càng khó. Đòi hỏi người giáo viên không chỉ cho học sinh tiếp cận tác phẩm, tác giả một cách cụ thể mà khám phá yếu tố nghệ thuật đặc sắc của nhà văn, nội tâm của nhân vật, và cần phải nhạy cảm, có tâm hồn dễ đồng cảm như thấy mình đang sống với nhân vật, nhập vai với nhân vật. Truyện Kiều của Nguyễn Du một lần nữa được khẳng định” Văn chương có loại đáng thờ có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương.Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người” . Trên đây là một vài suy nghĩ tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Kiều của Nguyễn Du qua đoạn trích đã được học trong chương trình Ngữ Văn - Lớp 9, mà nhiêu năm tôi tích lũy được. Tuy nhiên đây chỉ là suy nghĩ và việc làm của bản thân, nhất định còn hạn chế và thiếu sót. Tôi mong được các đồng chí đồng nghiệp chân thành góp ý để giúp tôi phấn đấu tốt hơn trong công việc giảng dạy Ngữ Văn của mình. Xin chân thành cảm ơn! Ngày 2 tháng 01 năm 2010 Người viết
Tài liệu đính kèm: