Chuyện người con gái Nam Xương
Ngày xưa có chàng Trương Sinh vừa cưói vợ xong đã phải đầu quân đi lính, để lại quê nhà người mẹ già và người vợ trẻ là Vũ Thị Thiết (còn gọi là Vũ Nuơng) đang mang thai. Vũ Nuơng ở nhà sinh con, nuôi con, săn sóc, phụng dưỡng mẹ chồng, lo liệu thuốc thang rất chu tất khi mẹ chồng ốm. Thế rồi, chẳng may, bà cụ bạc phước qua đời. Nàng lại lo ma chay chu đáo.
Giặc tan, Trương Sinh trở về nhà, nghe lời con trẻ nghi vợ không chung thuỷ. Vũ Nương bị oan, không thể thanh minh được, đành gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Một đêm, Trương Sinh cùng đứa con trai ngồi buồn bên ngọn đèn dầu. Đứa trẻ chỉ vào chiếc bóng trên tường và bảo đó là cha của nó, là người hay đến hằng đêm. Lúc đó Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của vợ.
Phan Lang- người cùng làng với Vũ Nương, do cứu mạng thần rùa Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải, nên khi chạy loạn chết đuối ở biển đã được Linh Phi cứu sống để tạ ơn- tình cờ gặp Vũ Nương dưới Thuỷ cung. Hai người nhận ra nhau, cùng tâm sự. Khi Phan Lang trở về trần gian, Vũ Nương gởi chiếc hoa vàng và lời nhắn cho Trương Sinh. Trương Sinh nghe kể, liền lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng lúc ẩn lúc hiện rồi biến mất.
Chuyện người con gái Nam Xương Ngày xưa có chàng Trương Sinh vừa cưói vợ xong đã phải đầu quân đi lính, để lại quê nhà người mẹ già và người vợ trẻ là Vũ Thị Thiết (còn gọi là Vũ Nuơng) đang mang thai. Vũ Nuơng ở nhà sinh con, nuôi con, săn sóc, phụng dưỡng mẹ chồng, lo liệu thuốc thang rất chu tất khi mẹ chồng ốm. Thế rồi, chẳng may, bà cụ bạc phước qua đời. Nàng lại lo ma chay chu đáo. Giặc tan, Trương Sinh trở về nhà, nghe lời con trẻ nghi vợ không chung thuỷ. Vũ Nương bị oan, không thể thanh minh được, đành gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Một đêm, Trương Sinh cùng đứa con trai ngồi buồn bên ngọn đèn dầu. Đứa trẻ chỉ vào chiếc bóng trên tường và bảo đó là cha của nó, là người hay đến hằng đêm. Lúc đó Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của vợ. Phan Lang- người cùng làng với Vũ Nương, do cứu mạng thần rùa Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải, nên khi chạy loạn chết đuối ở biển đã được Linh Phi cứu sống để tạ ơn- tình cờ gặp Vũ Nương dưới Thuỷ cung. Hai người nhận ra nhau, cùng tâm sự. Khi Phan Lang trở về trần gian, Vũ Nương gởi chiếc hoa vàng và lời nhắn cho Trương Sinh. Trương Sinh nghe kể, liền lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng lúc ẩn lúc hiện rồi biến mất. *********************** Làng Ông Hai là một người nông dân yêu tha thiết cái làng Chợ Dầu của mình. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Do yêu cầu của uỷ ban kháng chiến, vì gánh nặng gia đình, ông Hai phải đưa vợ con đi tản cư. Xa làng, ông nhớ làng da diết nên thường kể về làng mình một cách đầy tự hào. Trước cách mạng, ông yêu làng vì làng ông giàu đẹp. Sau cách mạng, ông Hai đã được giác ngộ. Giờ đây, ông yêu làng vì làng ông là một làng kháng chiến. Nhưng rồi một hôm, tin làng Chợ Dầu làm Việt gian theo Tây đến với ông quá đột ngột, khiến ông Hai vô cùng buồn khổ, đau đớn, tủi nhục. Suốt mấy ngày sau, ông không dám bước chân ra ngoài. Lúc nào, ông cũng sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ. Tin làng theo giặc đã làm nảy sinh một cuộc xung đột nội tâm gay gắt, quyết liệt trong ông giữa một bên là tình yêu làng quê và một bên là lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến. Bế tắc, tuyệt vọng, ông Hai chỉ còn biết trút nỗi lòng mình vào những lời tâm sự với thằng con út. Thế rồi, tin làng theo giặc được cải chính, ông Hai hết sức vui mừng, sung sướng. Ông đã hồ hởi đem chuyện làng mình, nhà mình bị Tây đốt đi khoe với mọi người. *********************** Lặng lẽ Sa Pa Trên chuyến xe từ Hà Nội đến Lào Cai, bác lái xe, ông họa sĩ lão thành và cô kĩ sư nông nghiệp trẻ đang vui vẻ trò chuyện. Đến Sa-pa, bác tài xế cho xe dừng lại 30 phút để hành khách nghỉ ngơi. Nhân dịp đó, bác lái xe giới thiệu với nhà họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên 27 tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh núi Yên Sơn. Anh thanh niên mời ông họa sĩ và cô gái lên thăm nơi ở và làm việc của mình. Qua cuộc trò chuyện, tâm tình ngắn ngủi ấy, giữa họ đã có sự cảm thông, quý mến, thân tình. Nhà họa sĩ định vẽ chân dung anh nhưng anh từ chối và giới thiệu 2 người khác xứng đáng hơn. Đó là ông kĩ sư vườn rau Sa-pa và anh cán bộ lập bản đồ sét. Thế rồi, 30 phút đã trôi qua, ông họa sĩ và cô gái chia tay anh để tiếp tục cuộc hành trình với bao tình cảm lưu luyến. *********************** Chiếc lược ngà Đầu năm 1946, ông Sáu- một nông dân Nam Bộ thoát li gia đình đi kháng chiến. Khi đi, đứa con gái đầu lòng và cũng là đứa con duy nhất của ông chưa đầy một tuổi. Mãi đến ngày hòa bình lập lại năm 1954, ông mới có dịp trở về nhà thăm vợ con. Lúc này, bé Thu đã lên tám tuổi. Thế nhưng, con bé lại không nhận ra cha mình do cái vết sẹo trên mặt khiến ông không giống như người trong ảnh mà má nó vẫn thường đưa cho nó xem. Trong ba ngày phép ngắn ngủi đó, ông Sáu không đi đâu xa, lúc nào cũng ở nhà quanh quẩn bên con, tìm cách âu yếm, vỗ về con với khao khát, mong mỏi được nghe con gọi một tiếng “ba”. Thế nhưng con bé nhất định không chịu gọi. Mãi cho đến lúc ông Sáu sắp lên đường trở lại đơn vị, bé Thu mới nhận ra cha và đeo chặt lấy ông. Trở lại căn cứ, ông Sáu mang theo nỗi ray rứt, ân hận vì trót lỡ đánh con và lời dặn thân thương của con bé. Ông tranh thủ thời gian rảnh rỗi, dồn tâm trí, công sức và tình yêu thương con vào việc làm cây lược. Có cây lược rồi, ông mong sớm gặp lại con để tận tay trao cho nó. Nhưng ông chưa kịp gặp con thì đã bị trúng đạn trong một trận càn của địch. Trước lúc hy sinh, ông thò tay vào túi móc lấy cây lược, trao lại cho một người đồng chí thân thiết với cái nhìn nhắn gửi. Sau này, tình cờ trong một lần đi công tác, bác Ba- người bạn chiến đấu thân thiết của ông sáu đã gặp lại bé Thu- giờ đã trở thành một cô giao liên dũng cảm gan dạ, trao lại cây lược. Giữa hai người đã nảy nở tình cảm cha con. *********************** Bến quê Nhĩ - nhân vật chính của truyện - từng đi khắp mọi nơi trên trái đất. Nhưng dến cuối đời anh lại bị cột chặt trên giường bởi một căn bệnh hiểm nghèo, đến nỗi không thể tự mình dịch chuyển lấy vài mươi phân trên chiếc giường hẹp kê bên cửa sổ. Chính những ngày nằm liệt giường ấy, Nhĩ đã phát hiện ra vẻ đẹp đầy quyến rũ của bãi bồi bên kia sông- nơi bến quê thân thuộc. Đồng thời, cũng đến lúc nằm một chỗ, đón nhận sự săn sóc ân cần, chu đáo đến từng miếng ăn, ngụm nước của chị Liên, Nhĩ mới cảm nhận được hết nỗi vất vả, sự tần tảo cũng như tình yêu thương và đức hi sinh thầm lặng của người vợ hiền thục. Trong lòng anh bỗng trào dâng một nỗi khát khao vô vọng: được đặt chân một lần lên cái bãi bồi bên kia sông. Anh nhờ cậu con trai giúp anh thỏa nỗi khát khao. Nhưng thằng Tuấn- con anh không hiểu ý bố lại đam mê cờ thế nên đã để lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Từ tình huống này, Nhĩ chiêm nghiệm ra được cái quy luật phổ biến của đời người về những điều vòng vèo, chùng chình trong cuộc sống. Cuối truyện, khi thấy con đò ngang chạm mũi vào bờ bên này, Nhĩ thu hết chút tàn lực cuối cùng của mình để nhô người ra ngoài cửa sổ, đưa cánh tay gầy guộc khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó, rồi trút hơi thở cuối cùng. *********************** Những ngôi sao xa xôi Phương Định- một cô gái Hà nội, vào chiến trường, cùng với Nho và chị Thao lập thành tổ thanh niên xung phong “Trinh sát mặt đường”. Họ đóng quân trong một cái hang, dưới chân cao điểm, tại một vùng trọng điểm trên tuyến đường lửa Trường Sơn. Công việc của họ là thường xuyên bám trụ trên cao điểm, theo dõi máy bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá phải san lấp, đánh dấu vị trí những quả bom chưa nổ và phá bom để thông đường, góp phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cuộc sống giữa chiến trường dù rất khắc nghiệt và nguy hiểm, nhưng họ vẫn giữ được nét tươi trẻ, hồn nhiên, lãng mạn, mơ mộng của tuổi trẻ. Và đặc biệt là họ sống gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng chí đồng đội trong sáng, thủy chung. Phần cuối truyện, trong một lần phá bom, Nho bị thương, chị đã được 2 người đồng đội của mình tận tình chăm sóc, cứu chữa. ***********************
Tài liệu đính kèm: