MÙA XUÂN NHO NHỎ
*Nhan đề bài thơ:
.là sự sáng tạo độc đáo, 1 phát hiện mới mẻ của Thanh Hải
.Hình ảnh mùa xuân biểu tượng cho những gì đẹp nhất của sự sống , của cuộc đời mỗi con người
.MXNN thể hiện ước nguyện bình dị,khiêm nhường nhưng tha thiết mãnh liệt của nhà thơ. Muốn dc làm 1 mùa xân nho nhỏ phóp phần vào mùa xuân lớn của đất nước, đó cũng là khát vọng cống hiến của nhà thơ :70:
Chú ý : dưới đây tất cả các bài đều chỉ là lời dẫn giải để các bạn hiểu bài , hiểu những gì cơ bản cần thiết nhất ,
* Bức tranh xuân nơi xứ Huế thơ mộng :mở ra với không gian, màu sắc,âm thanh, hình ảnh
.Không gian: cao, rộng
.bao la,mênh mông của bầu trời xuân (qua từ "vang trời")
.trải dài theo "dòng sông xanh"
.Màu sắc:
.sắc xanh của dòng sông--> thơ mộng , thanh bình, hiền hòa
.sắc tím của bông hoa --> màu của sự thủy chung ( sắc màu đặc trưng của xứ Huế)--> gợi nhớ đến những cô gái Huế tay cầm nón nhẹ nhàng dạo phố trong tà áo dài thướt tha
MÙA XUÂN NHO NHỎ *Nhan đề bài thơ: .........là sự sáng tạo độc đáo, 1 phát hiện mới mẻ của Thanh Hải .........Hình ảnh mùa xuân biểu tượng cho những gì đẹp nhất của sự sống , của cuộc đời mỗi con người .........MXNN thể hiện ước nguyện bình dị,khiêm nhường nhưng tha thiết mãnh liệt của nhà thơ. Muốn dc làm 1 mùa xân nho nhỏ phóp phần vào mùa xuân lớn của đất nước, đó cũng là khát vọng cống hiến của nhà thơ :70: Chú ý : dưới đây tất cả các bài đều chỉ là lời dẫn giải để các bạn hiểu bài , hiểu những gì cơ bản cần thiết nhất , * Bức tranh xuân nơi xứ Huế thơ mộng :mở ra với không gian, màu sắc,âm thanh, hình ảnh ...Không gian: cao, rộng ...........bao la,mênh mông của bầu trời xuân (qua từ "vang trời") ...........trải dài theo "dòng sông xanh" ..Màu sắc: ...........sắc xanh của dòng sông--> thơ mộng , thanh bình, hiền hòa ...........sắc tím của bông hoa --> màu của sự thủy chung ( sắc màu đặc trưng của xứ Huế)--> gợi nhớ đến những cô gái Huế tay cầm nón nhẹ nhàng dạo phố trong tà áo dài thướt tha ..Âm thanh: vang vọng ...........Nếu như tín hiệu của miền Bắc là dập dìu đàn chim én đón xuân về thì tiếng hót của con chim chiền chiện lại mang mùa xuân với xứ Huế thơ mộng.Tiếng hót ấy tuy nhỏ bé nhưng có thể làm xanh da trời , vang vọng trong không gian bầu trời xuân Hình ảnh: hiện lên trong bức tranh xuân ấy có "dòng sông xanh","bông hoa tím biếc","con chim chiền chiện" ............Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo trật tự tự trong câu = cách đưa từ "mọc" lên đầu câu thơ --> sự xuất hiện đột ngột của bông hoa súng đồng thời ta cũng cảm nhận dc quá trinh sinh trưởng của bông hoa.Dường như nó đang từ từ vươn lên sèo nở giữa dòng sông ............"ơi,chi"-->cách gọi thân thương, trìu mến của người dân xứ Huế ............Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "giọt long lanh".Đó khong chỉ đơn thuần là giọt mưa sương, giọt mưa xuân mà trên hết nó là giọt âm thanh . Dường như tiếng hót ấy không tan ra, không loãng ra mà đọng lại kết tụ thành hình thành khối thành từng giọt rơi trong khung trung và trong sâu thẳm tấc lòng của nhà thơ ............Nhà thơ ko chỉ cảm nhận mùa xuân = thị giác, thính giác, mà còn = cả xúc giác "tôi đưa tay tôi hứng" lấy từng giọt , từng giọt-->Nhà thơ đón nhận vẻ đẹp của mx = tất cả sự nâng niu, trân trọng. * Mùa xuân đất nước ....Điệp từ "lộc" lặp lại 2 lần là 1 hình ảnh đặc sắc . "Lộc" ở đây ko chỉ là lá nón, chồi non mà còn là biểu tượng cho sức sống mùa xuân, thành quả hạnh phúc ..."Lộc" gắn liền với "người cầm súng","người ra đồng" đã làm đẹp cho ý thơ với cuộc sống lao động-chiến đấu ; xây dựng-bảo vệ tỏ quốc ......Trên những vành lá ngụy trang của người ra trận, muôn ngàn chồi non đang hé nở .........Trên những nương mạ của người ra đông sức sống thanh xuân của mầm xanh đang trỗi dậy mạnh mẽ giục giã thôi thúc lòng người ==> có thể nói chính họ đã mạng mùa xuân đến cho đất nước ..Thanh Hải có sự cảm nhận sâu sắc về đất nước "đất nước như vì sao" bay lên ngời sáng, lung linh. Nhịp thơ nhanh , dồn dập hối hả --> không khi khẩn trương của dất nước ta trong giai đoạn đó .....Đất nước như người mẹ hiền , tần tảo, bao dung,"vất vả và gian lao","như vì sao" đạp = mọi chông gai, tiến lên phía trứoc trừong tồn mạnh mẽ bất diệt theo thời gian ==> Khổ thơ thể hiện niêm ftin sáng ngời và niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về đất nứoc và con người VN * Ước nguyện cống hiến chân thành tha thiết của nhà thơ Từ cảm xúc của mùa xuân tác giả đã chuyển mạch thơ 1 cách tự nhiên--> bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của mình về lẽ sống về giá trị cuộc đời mỗi con người Nhà thơ muốn làm: .............Một con chim --> góp tiếng hót trong muôn ngàn tiếng hót .............Một cành hoa --> tô điểm cho vườn hoa xuân đầy hương sắc .............Một nốt trầm trong bản hòa tấu muôn điệu. Chỉ một nốt trầm thôi nhưng xao xuyến lắn sâu trong lòng người .............Một mùa xuân nho nhỏ --> để góp thêm hương sắc cho mùa xuân đất nước =>Đó là khát vọng dc hòa nhập dc cống hiến sức mình tươi trẻ cho đất nứoc. Ước nguyện đó đã dâng lên thành một lẽ sống cao đẹp : mỗi người hãy cống hiến cho cuộc đời chung 1 nét riêng, cống hiến phần tinh túy nhất dù là nhỏ bé, khiêm nhường ....Ước nguyện ấy bất chấp thời gian, tuổi tác "Dù là tuổi hai mươi/Dù là khi tóc bạc" lúc nào cũng tha thiết mãnh liệt.Điệp từ "dù"--> lời tự nhắc trong hoàn cảnh nào cũng cống hiến hét mình. Ước muốn ấy còn được nhà thơ thể hiện = hình ảnh thơ sáng đẹp, 1 giọng văn thủ thỉ tâm tình, tha thiết ....Đánh giá: Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành là sự phát triển tự nhiên trong mạch cảm xúc của nhà thơ ....Sự chuyển đổi đại từ "tôi"--> "ta" ko phải là ngẫu nhiên mà nằm trong dụng ý của tác giả, đồng thời nó hoàn toàn phù hợp với mạch cảm xúc của bài thơ -"ta" ....>>tạo sắc thái trang trọng thiêng liêng như lời nguyện ước ...................>> ước nguyện ấy ko chỉ là của TH mà nhà thơ như nói lên ước nguyện của hàng triệu trái tim Việt ...................>> nhưng trong cái "ta" ấy vẫn có 1 giọng điệu nhỏ bé, khiêm nường của cái "tôi" Thanh Hải --> Ta bắt gặp ở đây 1 nhân sinh quan đầy ý nghĩa mà nhà thơ Tố Hữu đã từng nói........ "Nếu là con chim,chiếc lá .........Con chim phải hót,chiếc lá phải xanh ................ Lẽ nào vay mà không có trả .........Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình" .Gắn với hoàn cảnh sáng tác của bài thơ: dc sáng tác khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, phải giành giật với sự sống từng ngày nhưng trong ông vẫn không gợn chút băn khoăn lo lắng vè bệnh tật, vè những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mình.Trong ông chỉ lặng lẽ 1 khát khao dc sống , dc tiếp tục cống hiến như 1 ngọn nến sắp tàn vẫn bùng len nhưnữg tia sáng rực rỡ nhất và "MXNN" chính là sự cống hiến đẹp đẽ nhất của Thanh Hải trước khi ông trở về với cát bụi. * Khúc Nam Ai- Nam Bình khép lại bài thơ có ý nghĩa như thế nào? .........Đem lại nét thi vị trìu mến tha thiết mang đậm chất Huế ........Bài thơ được sáng tác vào những này mùa đông giá lạnh , mùa xuân ở đây là mùa xuân trong tâm tưởng của nhà thơ. Mùa xuân và khúc hát dân ca quê hương vẫn ngân lên tha thiết trong sâu thẳm tấc lòng của nhà thơ, điều đó chỉ có ở 1 người con yêu quê và gắn bó với quê hương .........Khúc Nam Ai-Nam Bình cùng với "nhịp phách tiền đất Huế" đã khép lại bài thơ nhưng lại mở ra 1 chân trời cảm xúc , thoáng buồn thương ngậm ngùi nhưng tha thiết máu thịt .Âm thanh đó không chỉ ngân mãi trong tâm trí nhà thơ mà còn ngân mãi trong lòng độc giả yêu "Mùa xuân nho nhỏ". Ôn luyện các đề Phần Tự luận Bài 1 Câu 1. Đoạn văn Cảm nhận của em trước bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân trong bốn câu thơ đầu đoạn trích: “Cảnh ngày xuân” (trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du Gợi ý a. Yêu cầu về nội dung: - Cần làm rõ 4 câu thơ dầu của đoạn trích"Cảnh ngày xuân" là một bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân. + Hai câu thơ đầu gợi không gian và thời gian – Mùa xuân thấm thoắt trôi mau. Không gian tràn ngập vẻ đẹp của mùa xuân, rộng lớn, bát ngát. + Hai câu thơ sau tập trung miêu tả làm nổi bật lên vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi giàu sức sống, nhẹ nhàng thanh khiết và có hồn qua: đường nét, hình ảnh, màu sắc, khí trời cảnh vật - Tâm hồn con người vui tươi, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn hồn nhiên. - Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, giàu chất tạo hình, ngôn ngữ biểu cảm gợi tả. b. Yêu cầu vê hình thức : - Trình bày thành văn bản ngắn. Biết sử dụng các thao tác biểu cảm để làm rõ nội dung. - Câu văn mạch lạc, có cảm xúc. - Không mắc các lỗi câu, chính tả, ngữ pháp thông thường (gọi chung là lỗi diễn đạt) Câu 2. Truyện ngắn làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Dựa vào đoạn trích trong Ngữ văn 9, tập một, để trình bày ý kiến của em. Gợi ý : I/ Tìm hiểu đề : - Đề yêu cầu phân tích một nhận xét : Những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Cái tình cảm có tính chất chung được nhà văn biểu hiện rất sinh động cụ thể trong nhân vật ông Hai. Vì thế cần phân tích tình yêu làng thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai. - Nhưng truyện thuộc loại có cốt truyện tâm lí, nhân vật ít hành động, chủ yếu biểu hiện nhân vật qua các tình huống bên trong nội tâm nhân vật. Do đó phải phân tích kĩ diễn iến tâm trạng ông Hai trong tình huống nghe tin làng theo giặc. Từ đó làm nổi rõ đặc điểm tính cách yêu làng, yêu nước của nhân vật. - Do yêu cầu của đề, cách viết nên có sự phân tích chung, rồi đi sâu vào nhân vật ông Hai, sau đó nhấn mạnh và khẳng điịnh sự gắn bó giữa tình yêu làng có tính truyền thống với những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trong sự giác ngộ cách mạng. - Dựa vào đoạn trích là chủ yếu, nhưng để phân tích được trọn vẹn, có thể trình bày lướt qua về nhân vật ở những đoạn khác. II/ Dàn bài chi tiết A- Mở bài: - Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông dân - Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. B- Thân bài 1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới. 2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có. a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai. - Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê. - Cái làng đó với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần. b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm. - Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái khong khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá”; rồi ông lo “cái chòi gác, những đường hầm bí mật,” đã xong chưa? - Tâm lí ham thích the ... ều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “ Bếp lưả” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà: “ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.” Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “ biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được vàcung chính t? đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ. Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có bá tiên, có phép màu thí trong câu chuyện của băng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn đểâ cháu ăn cho khỏi đói: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!” Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt? “ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp Tu hú kêu trên những cách đồng xa Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!” “Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ nững cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của nỗi nhớ thương. Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm: “Mẹ cùng cha bận công tác không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cách đồng xa” Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.? cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đoiá với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừalà mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Nững bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu be ùbỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,... Thi sĩ bổng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn qúit không rời. Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi... “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: “ Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!’ Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng bền vững, tấm lòng ủa bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con qúy cháu. Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn, một ngọn lửa: “Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn, Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu. Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thớ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cũng là nh74ngbài học sâu sắc từ công việc nhó, lửa tưởng chừng đơn giản: “ Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm” Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu. “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi” Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩ tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” “Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ. “Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh: “Tiếng gà trưa Mang bao nhiêu hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng.” Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà.Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà: “Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” Xa vòng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trơì mới, chính tình cảm cuả hai bà chaú đã sươỉ ấm lòng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu nhỏ cuả bà ngàu xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vần luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đưá cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả đưá chaú đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. “ Đọc xong bài thơ, nhắm mắt laị tưởng tưởng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lưả hồng và dáng ngươì bà lặng lẽ ngồi bên.. Bài thơ Bếp lưả sẽ sống maĩ trong lòng bạn đọc nhờ sưc truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dạy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những ngươì đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng cuả t
Tài liệu đính kèm: