Truyện Kiều được cấu trúc theo mô hình ba đoạn: hội ngộ, tai biến, đoàn viên. Ai cũng biết là trong đoạn kết thúc đại đoàn viên, Thuý Kiều gặp lại Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc của một thân phận kỹ nữ. Câu chuyện thoạt nhìn có cái không khí của kiểu kết thúc có hậu, song thực ra, cuộc đời đau khổ của nàng Kiều vẫn còn tiếp tục. Kiều một mực từ chối không sống như vợ chồng với Kim Trọng, dẫu cho chàng Kim tha thiết khẩn cầu nàng. Rút cục, vị cay đắng vẫn thấm đượm tận đáy lòng Kiều.
Diễn biến của đoạn kết thúc này có thể trình bày lại như sau: trong không khí đầm ấm của buổi tiệc đoàn tụ gia đình, người em gái Thuý Vân chủ động đứng lên nêu vấn đề Quả mai ba bảy đương vừa / Đào non sớm liệu se tơ kịp thì - làm lễ cưới cho Thuý Kiều và Kim Trọng tức “trả” lại chồng cho chị. Thuý Kiều đã kiên quyết gạt bỏ “phương án” của Thuý Vân:
Dứt lời nàng vội gạt đi,
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ ?
Một lời tuy có ước xưa
Xét mình dãi gió dầm mưa đã nhiều.
Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
Thà cho ngọn nước thuỷ triều chảy xuôi.
Nhân vật Thuý Kiều trong đoạn kết Truyện Kiều nhìn theo quan điểm văn hoá giới thời trung đại ThS. Phạm Thị Hồng Nhà xuất bản Giáo dục Truyện Kiều được cấu trúc theo mô hình ba đoạn: hội ngộ, tai biến, đoàn viên. Ai cũng biết là trong đoạn kết thúc đại đoàn viên, Thuý Kiều gặp lại Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc của một thân phận kỹ nữ. Câu chuyện thoạt nhìn có cái không khí của kiểu kết thúc có hậu, song thực ra, cuộc đời đau khổ của nàng Kiều vẫn còn tiếp tục. Kiều một mực từ chối không sống như vợ chồng với Kim Trọng, dẫu cho chàng Kim tha thiết khẩn cầu nàng. Rút cục, vị cay đắng vẫn thấm đượm tận đáy lòng Kiều. Diễn biến của đoạn kết thúc này có thể trình bày lại như sau: trong không khí đầm ấm của buổi tiệc đoàn tụ gia đình, người em gái Thuý Vân chủ động đứng lên nêu vấn đề Quả mai ba bảy đương vừa / Đào non sớm liệu se tơ kịp thì - làm lễ cưới cho Thuý Kiều và Kim Trọng - tức “trả” lại chồng cho chị. Thuý Kiều đã kiên quyết gạt bỏ “phương án” của Thuý Vân: Dứt lời nàng vội gạt đi, Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ ? Một lời tuy có ước xưa Xét mình dãi gió dầm mưa đã nhiều. Nói càng hổ thẹn trăm chiều, Thà cho ngọn nước thuỷ triều chảy xuôi. Tuy nhiên, đây mới là lời từ chối trước đề nghị của Thuý Vân. Phải đợi đến khi chính Kim Trọng lên tiếng, nhắc nhở nàng nhớ lại lời thề trang nghiêm trước trời đất: Dẫu rằng vật đổi sao dời / Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh, Thuý Kiều mới cắt nghĩa đầy đủ lý do khiến nàng từ chối: Nàng rằng gia thất duyên hài, Xót lòng ân ái ai ai cũng lòng. Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng, Hoa thơm phong nhị, trăng vòng tròn gương. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng, Đuốc hoa chẳng thẹn với cành mai xưa? Thiếp từ ngộ biến đến giờ, Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa. Chúng ta đều biết, dẫu chàng Kim tỏ ra rất thông cảm với cảnh ngộ của người yêu, nói rõ Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường song Kiều nhất định khước từ cuộc sống vợ chồng mà đề nghị cuộc sống bạn bè. Trong lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều, giới nghiên cứu, phê bình đã lý giải nguyên nhân và ý nghĩa của quyết định mà nàng Kiều đưa ra như thế nào? Đã có một số cách nhìn, cách đọc khác nhau đối với sự việc này. Nguyễn Khuyến đứng trên quan điểm trọng trinh tiết của Nho gia, tức quan điểm nam quyền, đã cười cợt sự “đeo đẳng” này của chàng Kim Không trách chàng Kim đeo đẳng mãi / Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi. “Một phần đuôi” tức là phần cuối, chút cặn bã còn lại sau mười lăm năm nàng Kiều lưu lạc. Chúng ta hiểu nhà nho vốn coi trọng trinh tiết của người phụ nữ nên đã nhìn thấy yếu tố hài hước trong chuyện Kim Trọng năn nỉ cùng Thuý Kiều sống đời sống vợ chồng. Nhà thơ Xuân Diệu - đứng trên quan điểm xã hội học- từng viết bài Bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều, lưu ý lời lên án tội ác xã hội phong kiến trong Truyện Kiều đã kéo dài mãi cho đến màn đại đoàn viên. Trích dẫn những lời tủi khổ của Kiều nói với Kim Trọng: Đã đem mình bỏ am mây, Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa. Mùi thiền đã bén muối dưa, Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng. Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! Dở dang nào có hay gì Đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi Rồi Xuân Diệu bình luận: “Ngay ở câu trả lời đầu tiên khi gặp nhau như chết sống lại, Kiều đã cho thấy đời mình tan nát, lòng mình tan nát, bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều đã bắt đầu: Đã tu - tu trót - qua thì - thì thôi”. Thuý Kiều nói với chàng Kim Trọng: Thiếp từ ngộ biến đến giờ, Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa Bấy chầy gió táp mưa xa Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn Còn chi là cái hồng nhan, Đã xong thân thế còn toan nỗi nào. Xuân Diệu bình: “Ta thử đọc lại đoạn này mà vận vào thân, xem thử có tủi nhục đến tận trong xương thịt mình hay không? Giày vò đến thế thì đến bao nhiêu thân cũng phải nát, huống chi một cái thân em Ba mươi tuổi chính là lúc người đàn bà đầy đặn trong tình yêu, sinh đẻ những đứa con đẹp đẽ, khoẻ mạnh nhất: ở tuổi ba mươi ấy, nàng Kiều mang mãi trong mình một vết thương đau. Nàng Kiều không thể bước qua được tâm hồn mình, nó rất thanh tú, tư cách của mình, nó rất tôn trọng”(1). Xuân Diệu nhấn mạnh sự tự trọng của nàng Kiều - một phụ nữ đã trải qua nhà chứa ô nhục - nhưng ông quan tâm nhiều hơn đến ý nghĩa xã hội của màn đại đoàn viên này: dư vị của những đắng cay, đau khổ mà xã hội phong kiến gây ra cho con người vẫn còn âm ỉ đến cả ngày hội ngộ, nhuộm màu đen tối cho cuộc đại đoàn viên. Ông viết: “Tuy nhiên, người ta vẫn cứ phải nghĩ một thực tế : Như vậy nàng Kiều ba mươi tuổi sẽ sống như thế, thực chất là không chồng không con cho đến hết đời. Biết chừng đâu Nguyễn Du lại không nghĩ cả cái thắc mắc ấy của bạn đọc chúng ta! Biết chừng đâu Nguyễn Du lại không đổ thêm dầu vào lửa, cố ý hai lần nói Kiều “đào non” lại nói “Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân”, càng nói Kiều còn trẻ đẹp, càng xui ta xốn xang thắc mắc. Thắc mắc với ai? Với toàn bộ xã hội phong kiến suy tàn tàn ác, không phải thắc mắc đâu, mà căm giận nó: mỗi lần đọc những lời Kiều nói, ba đợt, ta lại xót xa tức tối không chịu nổi”(2). Đó là tinh thần mà Xuân Diệu gọi là sự tính sổ với xã hội phong kiến. “Nguyễn Du đã sử dụng triệt để cuộc đoàn viên, để tính sổ một lần cuối cùng Nguyễn Du không đọc bản cáo trạng bằng xương bằng thịt, bằng máu của tâm hồn : Đây là nạn nhân còn sống sót của mười lăm năm chúng bay!”. Nhìn theo quan điểm Phật học, Thích Nhất Hạnh lý giải kỹ hơn lý do khiến nàng Kiều quyết định không sống cuộc sống vợ chồng với Kim Trọng : một là Kiều thấy hai người không còn xứng đôi nữa, nếu Kiều chấp nhận làm “chuyện đó” với Kim Trọng tức là Kiều không đối xử đẹp với Kim Trọng (cách nhìn này của Thiền sư khá giống với quan niệm của nhà nho về trinh tiết và với quan niệm của Xuân Diệu về lòng tự trọng); hai là Kiều đã là người tu hành, đã giác ngộ chân lý nhà Phật, đã vượt lên trên quan niệm hạnh phúc thông thường của chúng nhân, “đã nếm được mùi tịnh lạc và thấy hạnh phúc chân thật là như thế nào rồi thì không thể trở về chuyện đó được”(3). Ông cho rằng xét về tâm linh và kinh nghiệm sống, so với Kim Trọng thì “Thuý Kiều đã đứng vào vị trí một người thầy của Kim Trọng về mặt tu học và tâm linh Ngày xưa Kiều đã giữ Giới như một cô thiếu nữ. Bây giờ Kiều đã vượt ra khỏi, đã giải thoát rồi, Kiều không giữ Giới nữa mà Giới vẫn được tôn trọng”(4). Khái niệm “giữ Giới” ở đây nghĩa là trì giới, là tuân theo cấm kỵ chứ không phải là giới tính (sex). Theo Thích Nhất Hạnh, trước đây Kiều đã từng giữ gìn và vượt qua cơn đam mê dục vọng của Kim Trọng vì nàng muốn để dành tất cả niềm hạnh phúc cho đêm động phòng; còn bây giờ, Kiều từ chối vì không thấy ý nghĩa gì trong cuộc sống thân xác với Kim Trọng. Thích Nhất Hạnh thiên về đánh giá trình độ tu hành đã đạt đạo của nàng Kiều là nguyên nhân dẫn đến việc nàng từ chối sống vợ chồng với Kim Trọng. Theo ông, Thuý Kiều đã hiểu được hạnh phúc chân chính, vượt ra ngoài quan niệm hạnh phúc của người chưa giác ngộ như Kim Trọng. Theo chúng tôi, về phương pháp đánh giá và lý giải ứng xử của Thuý Kiều trong đoạn kết này, cần chú ý đến một sự việc hiển nhiên rằng nàng Kiều là một người phụ nữ. Khái niệm “giới” sử dụng ở đây có nghĩa là “giới tính”. Và ứng xử của nàng ở đoạn kết lại cần được nhìn trong chuỗi các ứng xử của nàng Kiều với tư cách là một người phụ nữ trong quan hệ với nam giới ở toàn bộ tác phẩm Truyện Kiều. Biểu hiện đặc trưng đầu tiên cho vị thế người phụ nữ trong quan hệ với nam giới là sự kiện Kiều tương tư quá “vắn tắt” so với Kim Trọng tương tư về Kiều sau cuộc hạnh ngộ của hai người giữa buổi chiều xuân trong hội đạp thanh. Nếu so sánh thuần tuý về số lượng câu thơ, dễ thấy Nguyễn Du chỉ dành cho Thuý Kiều 2 câu thơ nghĩ về chàng Kim Người đâu gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có duyên gì hay không. Trong khi đó, Nguyễn Du dành cho nỗi tương tư của chàng Kim tới 28 câu thơ, từ câu 243 đến câu 270: Cho hay là thói hữu tình, Đố ai dứt mối tơ mành cho xong. Chàng Kim từ lại thư song, Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây... Lơ thơ tơ liễu buông màng, Con oanh học nói trên cành mỉa mai. Đấy là chưa nói nếu phân tích nội dung cảm xúc tương tư thì thấy Kim Trọng chủ động và mãnh liệt hơn nhiều. Qua đây có thể nói, trong quan hệ nam nữ thời xưa, nam giới đóng vai trò chủ động và nữ giới chỉ đóng vai trò bị động. Nguyễn Du đã tôn trọng sự thực này. Rất có thể trên thực tế, trong đáy sâu tâm hồn một người con gái có những xao xuyến đầu đời mãnh liệt hơn, song sự thể hiện ra bên ngoài lại chỉ có chừng mực nhất định. Trong cái đêm cả nhà còn lưu lại ăn tiệc bên ngoại, nàng Kiều đã Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình đến với Kim Trọng. Đọc lại văn bản, ta thấy dường như chính Kim Trọng cũng thấy ngỡ ngàng: có thể nào tin được rằng trong đêm tối, một người con gái lại chủ động đến với mình? Như đã lường trước được sự ngỡ ngàng ấy, Kiều phải vội vã lý giải cho Kim Trọng rằng “cuộc viếng thăm” bất ngờ này không chỉ vì tình yêu mà chủ yếu là vì linh cảm về sự mong manh của tình yêu. Thuý Kiều muốn có một sự bảo đảm vững chắc cho tình yêu, và Kim Trọng đã cùng nàng thề nguyền dưới vầng trăng thiêng liêng. Dường như để tái xác nhận tính chất chính đáng của cuộc thăm, Thuý Kiều đã từ chối một cách có tình có lý khi chàng Kim tỏ ra lả lơi. Kiều đã viện dẫn ra những câu chuyện lịch sử ở đó, nếu có chuyện quan hệ nam nữ thì phần thiệt thòi chỉ có riêng người con gái gánh chịu (câu chuyện về lứa đôi Thôi Oanh Oanh - Trương Quân Thuỵ). So sánh hành động, ngôn ngữ của nàng và của Kim Trọng, dễ thấy chỉ có riêng người phụ nữ chịu áp lực của quan niệm đạo đức, trinh tiết, còn người đàn ông lại tự do trước áp lực này. Nói khác đi, áp lực của xã hội nam quyền đã có sức ám ảnh và chi phối thực tế và khá mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của Thuý Kiều. Một sự kiện khác cũng rất đặc trưng là mối quan hệ tay ba Thuý Kiều - Hoạn Thư - Thúc Sinh. Dễ thấy là tuy trong mối quan hệ đó, Thúc Sinh có một trách nhiệm không thể chối cãi: chính chàng đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh, đã sống với Kiều, và bằng những việc làm này, chính Thúc Sinh đã khởi động cái nguyên nhân dẫn đến việc đánh ghen thâm thuý của Hoạn Thư và rồi từ cuộc đánh ghen ấy sẽ dẫn đến phiên toà công lý, nơi đó Thuý Kiều sẽ có ý đồ trả thù Hoạn Thư rất quyết liệt. Nhưng rồi ta thấy, người đàn ông Thúc Sinh đã vô can trong khi hai người phụ nữ dồn cơn ghen vào tình địch. Hoạn Thư đã tỏ rõ cái ghen sâu sắc, thâm thuý của người phụ nữ quý tộc khi ra tay với Thuý Kiều. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã lên án sự nhu nhược của Thúc Sinh: khi thấy nàng Kiều bị Hoạn Thư hành hạ, Thúc Sinh đã chỉ biết “khóc thầm” mà không dám hành động công khai để cứu Kiều. Nhưng thiết nghĩ cần chú ý cả đến việc Thúc Sinh đã kín đáo xin với Hoạn Thư để mụ tha cho Kiều: Rằng tài nên trọng mà tình nên thương. Thì ra không phải Thúc Sinh nhu nhược, chàng chỉ muốn giữ cân bằng giữa hai người phụ nữ thù hận. Chủ trương cân bằng giữ ... ụng sống sượng các phạm trù thi pháp gây ảnh hưởng tiêu cực. Điều đáng chú ý là các giáo sư cao tuổi như Đỗ Bình Trị, Hoàng Tiến Tựu, Phan Đăng Nhật, Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Đăng Mạnh, Phạm Luận, Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Thị Bình... cũng tiến hành nghiên cứu văn học dân gian, nước ngoài hay văn học Việt Nam hiện đại, trung đại theo hướng thi pháp học. Nguyễn Đăng Mạnh đã viết về phong cách Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu từ trước thời đổi mới, Phạm Luận viết về thi pháp Việt Nam trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Hải Hà có Thi pháp tiểu thuyết L. Tônxtôi, Nxb. Giáo dục, 1992; Đỗ Bình Trị có Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb. Giáo dục, 1999; Phan Đăng Nhật nghiên cứu thi pháp sử thi Tây Nguyên có nhiều phát hiện mới mẻ; Nguyễn Đăng Na nghiên cứu thi pháp các thể loại văn xuôi trung đại Việt Nam (truyện ngắn, kí, tiểu thuyết). Có những người không đề xướng thi pháp học nhưng trên thực tế vẫn nghiên cứu thi pháp học như các giáo sư Đặng Anh Đào, Phùng Văn Tửu(22)... Một số tác giả khác tập hợp tác phẩm nghiên cứu rồi đặt tên cho công trình mình là thi pháp học. Một khuynh hướng nghiên cứu thu hút đông đảo nhà nghiên cứu tham gia như thế là một hiện tượng đột xuất của nghiên cứu văn học Việt Nam, nó chứng tỏ nhu cầu bức thiết trong việc đột phá lối nghiên cứu văn học xã hội học ngự trị suốt một thời gian dài từ 1945 cho đến sau năm 1975. Thi pháp học đem lại những phạm trù mới, những đề tài mới cho nghiên cứu văn học, như con người, không gian, thời gian, hình tượng tác giả, trần thuật, điểm nhìn, đối thoại, giễu nhại, mỉa mai..., mở rộng các cánh cửa tiếp cận văn bản. Mặc dù chất lượng chưa đồng đều, một điều rất bình thường, nhưng những công trình nêu trên đã góp phần khám phá, vỡ vạc nhiều phương diện nghệ thuật của hầu hết hiện tượng văn học thế kỉ XX, từ văn học hiện thực sang lãng mạn, tượng trưng; thi pháp văn học trung đại với con người và các thể loại cũng được nghiên cứu đặt nền móng cho những tìm tòi cao hơn, sâu hơn về sau. Thi pháp học Việt Nam tuy chịu ảnh hưởng của Nga hay phương Tây, song khi vào Việt Nam, xét trên một số đóng góp chủ yếu, nó đã có sáng tạo rõ rệt, hoàn toàn không phải là sao chép. Một số công trình nặng tính sao chép, lệ thuộc máy móc vào phương pháp của nước ngoài tỏ ra là nhạt nhẽo, bất cập. Xét về phương pháp, tuy khuynh hướng có chỗ khác nhau, song về đại thể hầu hết nghiên cứu thi pháp, phong cách đều có cách tiếp cận chung khá thống nhất là xét tần xuất để xác định hiện tượng độc đáo, sau đó xây dựng mô hình chỉnh thể, hệ thống, giải thích các hiện tượng tìm được về mặt quan niệm của thời đại và của tác giả. Đó là cách tiếp cận khách quan có cơ sở từ lí thuyết cấu trúc, một cấu trúc không khép kín(23). So sánh cách tiếp cận của Trần Đình Sử, Phan Ngọc, Đỗ Đức Hiểu, Đỗ Lai Thuý đều cho thấy cái chung đó. Cũng từ đó có thể thấy thi pháp học, phong cách học Việt Nam vẫn đi theo phương hướng chủ yếu của lí thuyết cấu trúc, hệ thống, chưa bước sang giai đoạn giải cấu trúc và hậu hiện đại. Mặc dù ở phương Tây đã có tiếng hô lên “tác giả đã chết”, song ở thi pháp học Việt Nam tác giả vẫn còn ở vị trí trung tâm. Tính đa nghĩa của văn học và tính dân chủ trong tiếp nhận đã được thừa nhận, song trong nghiên cứu thi pháp, xu hướng lí giải độc tôn vẫn còn bám riết lấy một số tác giả như một nhu cầu tự đề cao. Thi pháp học Việt Nam góp phần đổi mới, tạo ra một giai đoạn mới của phê bình văn học, thay thế dần lối phê bình bình tán chủ quan thịnh hành theo phương pháp giảng văn (Explication) của Lanson, Beard du nhập vào Việt Nam trước 1945, chỉ dựa vào một số cứ liệu về thời đại, sinh hoạt, cá tính tác giả rồi bình tán mà không quan tâm đến các quy luật nghệ thuật nội tại một cách khách quan của văn bản văn học. Thi pháp học cũng tác động vào nhiều công trình nghiên cứu theo xã hội học làm cho nó phong phú hơn và mềm mại hơn. Thi pháp học Việt Nam đang đứng trước nhu cầu đa dạng hoá cách tiếp cận, trang bị và nghiền ngẫm sâu thêm về lí thuyết. Nhiều công trình cụ thể còn sơ lược, nhầm lẫn về phương diện này. Thi pháp học là một phương hướng nghiên cứu có ý nghĩa lâu dài, chính vì thế cần có sự phân hoá thành các trường phái mới có thể phát triển. Thi pháp học có thể theo cách tiếp cận cấu trúc ngữ học, tiếp cận thế giới nghệ thuật, theo phân tâm học, theo kí hiệu học, theo văn hoá học, xã hội học... Gần đây một số ý kiến cho rằng thi pháp học đã lỗi thời, chỉ trích một số học viên nghiên cứu sinh áp dụng máy móc. Tôi cho rằng bất cứ lí thuyết nào cũng có thể bị vận dụng thô thiển, không riêng gì thi pháp học, vấn đề là bản lĩnh của người nghiên cứu chứ không phải bản thân lí thuyết. Cho rằng thi pháp học đã lỗi thời là do không hiểu thi pháp học. Với thế giới nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật của hình thức, thi pháp học là một hệ lí luận và thao tác mở, có khả năng thu nạp các lí thuyết khác vào quỹ đạo tìm tòi các nguyên tắc, phương thức, phương tiện nghệ thuật. Ngay trong lí luận hiện tại, biết vận dụng thì thi pháp học vẫn có thể giúp nêu ra nhận thức mới về một thế giới nghệ thuật nhất định. Ở đây việc phiên dịch, giới thiệu các công trình của các tác giả lớn trên thế giới có ý nghĩa quan trọng. Sự thiếu hụt và phiến diện về tri thức thi pháp học trong số đông những người nghiên cứu và đọc thi pháp là trở ngại cho sự nâng cao chất lượng các công trình thi pháp và đánh giá đúng đắn về thi pháp học. Thi pháp học không phải là hướng nghiên cứu văn học duy nhất trong thời gian qua, nhưng phải thừa nhận nó là hiện tượng nổi bật nhất. Các hướng nghiên cứu phân tâm học, văn học so sánh, xã hội học, văn hoá học, tuy có một số thành tựu rất đáng kể, vẫn chưa được đẩy tới thành những trường phái nghiên cứu hấp dẫn rộng rãi những người nghiên cứu. Bức tranh thi pháp học Việt Nam trên đây do còn khiếm khuyết về tài liệu, chắc chắn khó tránh khỏi thiếu sót, mong được góp ý và sẽ bổ sung thêm về sau1 Hà Nội, 9 – 2008 _____________ (1) Trường hợp thơ không vần của Nguyễn Đình Thi là một dịp để tìm hiểu thi pháp thơ hiện đại, nhưng đã bị bỏ qua. (2) Đáng chú ý là Giảng văn Chinh phụ ngâm của Đặng Thai Mai, 1949; Nói chuyện thơ kháng chiến của Hoài Thanh, 1951; Các nhà thơ cổ điển của Xuân Diệu; và nhiều công trình phê bình văn học khác. (3) Jean Ives Tadié: Phê bình văn học thế kỉ XX, bản dịch Trung văn của Nxb. Bách hoa văn nghệ Thiên Tân, 1998. (4) J Bessiere, F. Kushner, R. Mortier, J.Weiberger: Lịch sử các thi pháp, bản dịch của Nxb. Bách hoa văn nghệ Thiên Tân, 2002. (5) Nguyễn Văn Trung: Lược khảo văn học. Tập 1,2,3. Nam Sơn, Sài Gòn, 1966; Trần Thiện Đạo: Chủ nghĩa hiện sinh và thuyết cấu trúc, Nxb. Văn học, H, 2001 (viết khoảng những năm 60 tại Sài Gòn); Trần Ngọc Ninh: Ý nghĩa và cơ cấu Truyện Kiều, Bách Khoa, 1972; Bùi Hữu Sũng: Quan niệm mới về tiểu thuyết: Chữ đẻ ra chữ, Bách Khoa, 1972, Đặng Tiến: Vũ trụ thơ, 1972, Sài Gòn... (6) Nguyễn Trung Hiếu: Về tính hệ thống của văn học. Đại học Sư phạm Vinh xuất bản, 1983. (7) Vương Trí Nhàn: Chung quanh khái niệm “thi pháp” trong khoa nghiên cứu văn học Xô Viết hiện nay. Tạp chí Văn học, số 1-1981. Nguyễn Kim Đính: Một số vấn đề thi pháp của nghệ thuật ngôn từ. Tạp chí Văn học, số 5,6-1985. Trần Đình Sử: Những vấn đề thi pháp Dostoievski của Bakhtin. Văn nghệ quân đội, số 10-1985. M.V. Khrapchenco: Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người. Tập 1 và 2. Nxb. KHXH, H, 1985. (8) Bakhtin: Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch và giới thiệu). Nxb. Văn học và Trường viết văn Nguyễn Du, H, 1992. (9) Bakhtin: Những vấn đề thi pháp Dostoievski (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch). Nxb. Giáo dục, H, 1993. (10) Likhachev D.X: Thi pháp văn học Nga cổ. Phan Ngọc dịch, bản đánh máy, bản dịch chưa hoàn thiện, chưa xuất bản, nhưng được photo khá phổ biến trong giới nghiên cứu sinh. (11) Phan Ngọc: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Nxb. KHXH, H, 1985; Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học. Nxb. Trẻ, Hồ Chí Minh, 1990; Thử xét văn hoá văn học bằng ngôn ngữ học. Nxb, Thanh niên, H, 2000. (12) Nguyễn Phan Cảnh: Ngôn ngữ thơ. Nxb. Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, H, 1985. (13) Nguyễn Tài Cẩn: Tìm hiểu kĩ xảo hồi văn liên hoàn trong bài Vũ tung sơn thuỷ của Thiệu Trị. Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1998; Ảnh hưởng Hán văn Lí Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn. Nxb. Giáo dục, H, 1998. (14) Hoàng Trinh: Đối thoại văn học. Nxb. Hà Nội, H, 1986; Thi pháp học và thế giới vi mô của tác phẩm văn học. Tạp chí Văn học, số 5-1991; Những bài hát ru con dưới góc độ kí hiệu học. Tạp chí Văn học, số 2-1995; Từ kí hiệu học đến thi pháp học. Nxb. KHXH, H 1992; Tuyển tập văn học. Nxb. Hội Nhà văn, H, 1998. (15) Bùi Công Hùng: Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca. Nxb. KHXH, H, 1983; Quá trình sáng tạo thơ. Nxb. KHXH, H, 1986; Sự cách tân của văn học Việt Nam hiện đại. Nxb. Văn hoá thông tin, H, 2000. (16) Đỗ Đức Hiểu: Đổi mới phê bình văn học. Nxb. KHXH và Nxb. Mũi Cà Mau, 1993; Thi pháp hiện đại. Nxb. Hội Nhà văn, H, 2000; Đổi mới đọc và bình văn. Nxb. Hội Nhà văn, H, 1998. (17) Đỗ Lai Thuý: Con mắt thơ. Nxb. Lao động, H, 1992. Cuốn sách được tái bản nhiều lần; Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực. Nxb. Lao động , H, 2000. (18) Trần Đình Sử: Thời gian nghệ thuật trong Truyện Kiều. Tạp chí Văn học, số 5-1981; Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Tạp chí Văn học, số 2-1982; Thi pháp thơ Tố Hữu. Nxb. Tác phẩm mới, H, 1987; Một số vấn đề thi pháp học hiện đại. Vụ Giáo viên xb, H, 1993; Những thế giới nghệ thuật thơ. Nxb. Giáo dục, H, 1995; Lí luận và phê bình văn học. Nxb. Hội Nhà văn, H, 1996; Thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Nxb. Giáo dục, H, 1998; Dẫn luận thi pháp học. Nxb. Giáo dục, H, 1998, 2004; Thi pháp Truyện Kiều. Nxb. Giáo dục, H, 2002. (19) Ngoài các công trình thi pháp học, xin xem phần “Điểm nhìn trần thuật” trong giáo trình Lí luận văn học. Tập 2. Nxb. Giáo dục, H, 1987. (20) Trần Đình Sử (chủ biên): Tự sự học, những vấn đề lí thuyết và lịch sử. Đại học Sư phạm, H, 2003; Tự sự học. Tập 2, Đại học Sư phạm, H, 2008. (21) Nguyễn Xuân Kính: Thi pháp ca dao. Nxb. KHXH, H, 1993, ĐHQG, H, 2004. (22) Phùng Văn Tửu: Tiểu thuyết Pháp hiện đại những tìm tòi đổi mới. Nxb. KHXH, Mũi Cà Mau, 1990; Đặng Anh Đào: Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại. Nxb. Giáo dục, H, 1995. (23) Jean Piaget trong sách Chủ nghĩa cấu trúc (Le structuralisme, Paris, 1979) cho rằng đặc điểm chung của chủ nghĩa cấu trúc là nghiên cứu nội tại, lập thành công thức để ứng dụng. Một cấu trúc gồm 3 yếu tố: tính chỉnh thể, có quy tắc chuyển đổi, có năng lực tự điều chỉnh. Chủ nghĩa cấu trúc yêu cầu phá bỏ nghiên cứu nguyên tử luận, bắt đầu nghiên cứu từ chỉnh thể. Nghiên cứu tính chỉnh thể, hệ thống, toàn bộ tập hợp đều gọi là nghiên cứu cấu trúc. Xem Chủ nghĩa cấu trúc, bản dịch Trung văn của Nxb. Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 1996.
Tài liệu đính kèm: