TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM (Ngữ văn 9)
I- Truyện “Làng” – Kim Lân:
1- Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng được một tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng quê và lòng yêu nước ở nhân vật ông Hai. Đó là tình huống nào?
Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân sở dĩ hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối, nhân vật ông Hai sở dĩ trở nên thân quý với người đọc, chính là vì tác giả đã sáng tạo ra được một tình huống truyện đặc sắc , Tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước ở người nông dân. Đó là tình huống ông Hai tình cờ nghe được tin dân làng Chợ Dầu yêu quý của ông đã trở thành Việt gian theo Pháp, phản lại kháng chiến, phản lại Cụ Hồ.
Tình huống này xét về mặt hiện thực rất hợp lý; về mặt nghệ thuật nó tạo nên một cái nút thắt của câu chuyện. Tình huống bất ngờ ấy đã khiến ông Hai đau xót, tủi hổ, day dứt trong sự xung đột giữa tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước, mà tình cảm nào cũng tha thiết, mạnh mẽ. Đặt nhân vật vào tình huống ấy, tác giả đã làm bộc lộ sâu sắc cả hai tình cảm nói trên ở nhân vật và cho thấy lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến đã chi phối và thống nhất mọi tình cảm khác trong con người Việt Nam thời kỳ kháng chiến.
2-Nhận xét những nét nghệ thuật chính của truyện ngắn “Làng” (nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, ngôn ngữ nhân vật) ?
-Miêu tả tâm lý nhân vật: Tâm trạng của nhân vật chính (ông Hai) là tâm trạng của người nông dân Bắc Bộ được miêu tả rất cụ thể, tỉ mỉ, có diễn biến có quá trình, được biểu hiện qua từng suy nghĩ, thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động. Như thể là tác giả đã nhập thẳng vào nhân vật ông Hai mà miêu tả, mà kể, mà phân tích , mà lý giải từng diễn biến nhỏ của nỗi lòng.
+ Đặt nhân vật trong một tình huống bất ngờ mà hợp lý không chỉ tạo thành nút truyện , tạo sự căng thẳng và hấp dẫn của truyện mà còn là dịp tốt để đẩy câu chuyện đến cao trào, để có dịp trình bày những day dứt, những đau khổ và giải tỏa của nhân vật và là dịp tốt để khẳng định chủ đề, ca ngợi tình yêu làng yêu quê, yêu nước gắn bó như thế nào, mang màu sắc riêng độc đáo như thế nào trong tâm hồn người nông dân Việt Nam.
+ Nhân vật ông Hai vừa chân thật,vừa giản dị , vừa sống động lại có chiều sâu. Đó là hình ảnh tiêu biểu và phổ biến của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp với quyết tâm sẵn sàng:
Nhà tan cửa nát, cũng ừ!
Đánh thắng giặc Pháp, cực chừ, sướng sau!
TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM (Ngữ văn 9) I- Truyện “Làng” – Kim Lân: 1- Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng được một tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng quê và lòng yêu nước ở nhân vật ông Hai. Đó là tình huống nào? Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân sở dĩ hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối, nhân vật ông Hai sở dĩ trở nên thân quý với người đọc, chính là vì tác giả đã sáng tạo ra được một tình huống truyện đặc sắc , Tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước ở người nông dân. Đó là tình huống ông Hai tình cờ nghe được tin dân làng Chợ Dầu yêu quý của ông đã trở thành Việt gian theo Pháp, phản lại kháng chiến, phản lại Cụ Hồ. Tình huống này xét về mặt hiện thực rất hợp lý; về mặt nghệ thuật nó tạo nên một cái nút thắt của câu chuyện. Tình huống bất ngờ ấy đã khiến ông Hai đau xót, tủi hổ, day dứt trong sự xung đột giữa tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước, mà tình cảm nào cũng tha thiết, mạnh mẽ. Đặt nhân vật vào tình huống ấy, tác giả đã làm bộc lộ sâu sắc cả hai tình cảm nói trên ở nhân vật và cho thấy lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến đã chi phối và thống nhất mọi tình cảm khác trong con người Việt Nam thời kỳ kháng chiến. 2-Nhận xét những nét nghệ thuật chính của truyện ngắn “Làng” (nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, ngôn ngữ nhân vật) ? -Miêu tả tâm lý nhân vật: Tâm trạng của nhân vật chính (ông Hai) là tâm trạng của người nông dân Bắc Bộ được miêu tả rất cụ thể, tỉ mỉ, có diễn biến có quá trình, được biểu hiện qua từng suy nghĩ, thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động. Như thể là tác giả đã nhập thẳng vào nhân vật ông Hai mà miêu tả, mà kể, mà phân tích , mà lý giải từng diễn biến nhỏ của nỗi lòng. + Đặt nhân vật trong một tình huống bất ngờ mà hợp lý không chỉ tạo thành nút truyện , tạo sự căng thẳng và hấp dẫn của truyện mà còn là dịp tốt để đẩy câu chuyện đến cao trào, để có dịp trình bày những day dứt, những đau khổ và giải tỏa của nhân vật và là dịp tốt để khẳng định chủ đề, ca ngợi tình yêu làng yêu quê, yêu nước gắn bó như thế nào, mang màu sắc riêng độc đáo như thế nào trong tâm hồn người nông dân Việt Nam. + Nhân vật ông Hai vừa chân thật,vừa giản dị , vừa sống động lại có chiều sâu. Đó là hình ảnh tiêu biểu và phổ biến của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp với quyết tâm sẵn sàng: Nhà tan cửa nát, cũng ừ! Đánh thắng giặc Pháp, cực chừ, sướng sau! - Ngôn ngữ và lời kể: Lời văn tự nhiên, hồn hậu , đậm ý vị quần chúng nông dân với cách dùng từ, đặt câu hết sức dễ hiểu, mộc mạc : dám đơn sai, Cụ Hồ trên đầu trên cổ,nó thì rút ruột ra,u rú xó nhà, ăn hết nhiều chứ ở hét bao nhiêu, chơi sậm sụi với nhau. 3- Chủ đề của truyện “Làng”? Tình yêu làng thống nhất bền chặt với lòng yêu nước. Đó là một tình cảm mới xuất hiện trong tâm hồn và tình cảm người nông dân Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, trong cuộc kháng chiến chống Pháp. 4- Tập làm văn 4.1 : Suy nghĩ vè nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân. 4.2 :Truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp? (Cần nêu được tình yêu làng quyện với lòng yêu nước ở nhân vật ông Hai, một nét mới trong đời sống tinh thần của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp) Dàn ý Gợi ý bài viết I- Mở bài: -Giới thiệu truyện ngắn “Làng” và nhân vật ông Hai – nhân vật chính của tác phẩm, một trong những nhân vật thành công nhất của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp. -Nêu vấn đề sẽ phân tích : tình yêu làng và lòng yêu nước vẻ đẹp nổi bật ở nhân vật ông Hai. II- Thân bài:(Triển khai các nhận định về tình yêu làng, lòng yêu nước ở nhân vật ông Hai và nghệ thuật đặc sắc của nhà văn.) a/ Tình yêu làng yêu nước của nhân vật ông Hai là tình cảm nổi bật, xuyên suốt toàn truyện: -Chi tiết đi tản cư nhớ làng -Theo dõi tin tức kháng chiến -Tâm trạng khi nghe tin đồn làng chợ Dầu theo Tây. - Niềm vui khi tin đồn được cải chính. b/ Nghệ thuật xây dựng nhân vật: - Chọn tình huống để thể hiện tâm lý nhân vật. - Các chi tiết miêu tả nhân vật - Các hình thức trần thuật. III- Kết bài: - Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật. -T hành công của nhà văn khi xây dựng nhân vật ông Hai I- 1/(Đi từ khái quát đến cụ thể - từ nhà văn đến tác phẩm đến nhân vật); Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân là một giương mặt độc đáo. Do hoàn cảnh sống của mình, ông am hiểu sâu sắc sinh hoạt , tâm lý của người nông dân. Kim Lân được xem là nhà văn của nông thôn, của người dân quê Việt Nam với những vẻ đẹp mộc mạc mà đậm đà . “Làng” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân. Tác phẩm này được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, thể hiện một cách sinh động vẻ đẹp tình yêu làng, lòng yêu nước ở người nông dân. Ai đến với ông “Làng”, chắc khó quên được ông Hai - một nhân vật nông dân mang những nét đẹp thật đáng yêu qua ngòi bút khắc họa tài tình của Kim Lân (nếu đề Hai : .......khó quên được ông Hai - một nhân vật nông dân mang những nét đẹp thật đáng yêu . Ở ông có những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp) 2/(Nêu trực tiếp những suy nghĩ của người viết): Tình yêu làng, sự gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn vốn là một tình cảm sâu nặng ở con người Việt Nam nói chung, đặc biệt ở người nông dân nói riêng. Lịch sử văn học dân tộc từng xây dựng thành công nhiều nhân vật mang tình cảm đáng quý ấy . Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một trong những trường hợp tiêu biểu như thế . Ông Hai không những yêu làng màtình yêu làng ở ông thống nhất bền chặt với lòng yêu nước. Đó là một tình cảm mới xuất hiện trong tâm hồn và tình cảm người nông dân Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, trong cuộc kháng chiến chống Pháp. II- a/ Tình yêu làng yêu nước của nhân vật ông Hai là tình cảm nổi bật, xuyên suốt toàn truyện: - Khi tản cư, ông Hai nghĩ đến những ngày hoạt động kháng chiến giữ làng cùng anh em, đòng đội. Tình cảm yêu làng của ông đã gắn bó với tình cảm kháng chiến. Ông không chỉ là một dân làng mà còn là một phụ lão , một chiến sĩ đã từng tham gia đánh giặc giữ làng mà nay phải xa làng đi tản cư. - Ở nơi tản cư, ông luôn theo dõi tin tức kháng chiến , tin tức của làng Dầu. Sáng hôm ấy ,ông Hai đang ở trong phòng thông tin, tâm trạng rất phấn chấn:Ruột gan ông lão như múa lên. Vui quá! Vui vì kháng chiến bao nhiêu, ông càng cụt hứng và đau khổ bấy nhiêu. -Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái tin cả làng Dầu “Việt gian theo Tây” . + Ông sững sờ, “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi, tưởng như không thở được.....”- một cái tin động trời mà trước đó ông không thể tin, không thể ngờ lại có thể xảy ra như thế . Ông Hai còn cố gắng hỏi lại để hy vọng đó chỉ là tin đồn thất thiệt. Nhưng rồi, bằng những chứng cứ cụ thể, ông Hai đành phải tin cái sự thật khủng khiếp ấy. Cử chỉ đầu tiên của ông là lảng chuyện, cười cái nhạt thếch của sự bẽ bàng, rời quán về nhà (nơi tản cư). Những câu nói mỉa móc, căm ghét của những người tản cư nói về cái làng Việt gian ấy đuổi theo ông làm ông xấu hổ, ê chề như là họ đang mắng chửi chính ông-vì ông là người chợ Dầu, cái làng đốn mạt ấy. Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi : đi trong sự trốn tránh vì xấu hổ và nhục nhã. + Về đến nhà , ông nằm vật ra giường như bị cảm.Trong đau khổ và xấu hổ, nhục nhã nhìn đàn con chơi đùa, ông Hai nghĩ đến sự hắt hủi,khinh bỉ của nọi người dành cho ngững đứa trẻ của cái làng Việt gian. Thương con, ông thoắt vô cùng căm giận dân làng - những kẻ mà ông đã gọi là chúng bay một cách căm ghét và khinh bỉ . Ông nguyền rủa họ đã làm một việc điếm nhục bậc nhất hại đến danh dự của làng, và tội còn to hơn thế: đó là tội phản bội, đầu hàng, bán nước. + Nhưng rồi ông lại khó tin là chuyện tày đình ấy có thể xảy ra. Nhưng những chứng cứ hiển nhiên trở lại làm ông đành một lần nữa cay đắng chấp nhận sự thật và sự nhục nhã, sự giày vò tâm trí lại sôi réo trong lòng ông. Ông nghĩ tới sự tẩy chay của mọi người, tới tương lai chưa biết làm ăn sinh sống như thế nào? Cụ thể nhất là ông sắp phải đón đợi thái độ ghẻ lạnh , móc máy của mụ chủ nhà khó tính, lắm điều. + Trò chuyệnvới vợ trong gian nhà ở nhờ , thái độ của ông vừa bực bội , vừa đau đớn, cố kìm nén, ông gắt gỏng vô cớ,trằn trọc thở dài, rồi lo lắng đến mức chân tay nhũn ra, nín thở, lắng nghe, không nhúch nhích, nằm im chịu trận. + Trong mấy ngày sau đó , ông không dám ra khỏi nhà, không dám đi đâu, chỉ ru rú trong nhà nghe ngóng tình hình bên ngoài, lo lăng sợ hãi thường xuyên: lúc nào cũng nghĩ đến chuyện ấy, cũng tưởng mọi người chỉ nói đến chuyện ấy. + Khi mụ chủ nhà khó tính đẩy vợ chồng ông Hai đến tình thế khó xử là không biết sẽ sống nhờ ở đâu, tâm trạng ông Hai lại càng trở nên u ám bế tắc và tuyệt vọng . Chính trong phút giây tuyệt vọng ấy, ông lão đã chớm có ý định quay về làng cũ. Nhưng trong ông lập tức lại diễn ra cuộc tự đấu tranh quyết liệt: Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ, về làng là chịu đầu hàng thằng Tây.....Đến đây, tình cảm tự do, tình cảm cách mạng, lòng yêu làng yêu nước đã thực sự hòa quyện trong tâm hồn người lão nông tản cư. Và ông quyết định dứt khoát, trong cực kì đau khổ, uất hận: Muốn sao thì sao, không thể bỏ về làng, phải thù cái làng theo giặc ấy dù trước đây, dù cả đời ông đã gắn bó máu thịt với nó, vô cùng yêu thương, tự hào về nó. Thế là mâu thuẫn nội tâm trong ông Hai đã tạm thời tự ông tìm được hướng giải quyết trong tình thé thúc bách, Nhưng trong lòng ông đau đớn biết bao. Ông chỉ còn biêt san vợi phần nào nỗi đau ấy trong câu chuyện với đứa con út còn thơ dại. + Đoạn đối thoại đã biểu hiện tình cảm thiêng liêng và sâu nặng của ông Hai với quê hương, đất nước, với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời tâm tình thủ thỉ của ông với đứa con nhỏ đó chính là tiếng lòng sâu thẳm của ông, nó nói lên thành tiếng quyết tâm và ý chí của ông, tâm sự của ông trong một hoàn cảnh cụ thể của ông với quê hương, với kháng chiến , với vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân. Đó là tự nhủ giải bày lòng mình, như là tự minh oan cho chính mình . Đó là tình yêu sâu nặng với cái làng quê đang tạm thời phải xa, phải thù. Đó là tấm lòng chung thủy với cách mạng và kháng chiến, tấm lòng biết ơn chân thành, bền vững và thiêng liêng cho đến chết: Anh em đồng chí biết cho bố con ông Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. quả là những suy nghĩ và lời lẽ chân thành rất mực, mộc mạc rất mực của người nông dân nghèo Bắc Bộ. + Nhưng rồi cái tin làng theo giặc được cải chính. Đến lúc này, mọi nỗi đau của ông Hai biến mất. Mới đến ngõ, chưa vào nhà, ông đã “bô, bô”, rồi “lật đật” sang nhà bá ... hòa với bao kỷ niệm tuổi thơ vô cùng thiết tha về người bà kính yêu, người bà đôn hậu và tần tảo sớm khuya sáng bừng lên như một ngọn lửa thần kỳ và thiêng liêng. -Hình ảnh đầu tiên hiện lên trong trí nhớ của tác giả là hình ảnh bếp lửa ở một làng quê Việt Nam từ thời thơ ấu: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Từ hình ảnh bếp lửa liên tưởng tự nhiên đến người nhóm lửa, nhóm bếp - đến nỗi nhớ, tình thương với bà của đứa cháu đang ở xa: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa “Biết mấy nắng mưa” là một cách nói ẩn dụ gợi ra phần nào cuộc đời vất vả lo toan của bà. Một bếp lửa và một làn sương sớm. Tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà. Rồi những ngày cha mẹ đi công tác xa. Rồi cháu làm cháu học với bà....: Mẹ cùng cha bận công tác không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm , bà chăm cháu học (Bằng Việt- Bếp lửa) “cháu ở cùng bà”, “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la , sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ. Trong nhiều gia đình Việt Nam, do nhiều cảnh ngộ khác nhau, mà vai trò của người bà đã thay thế vai trò của người mẹ hiền. Sống trong những năm chiến tranh, khi “giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi” được sự “đỡ đần” của bà con hàng xóm,hai bà cháu mới dựng lại được túp lều tranh, thế nhưng bà vẫn “vững lòng” trước mọi tai họa thử thách: Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp ta hình dung giọng nói, tiếng nói, tình cảm và suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của người bà, người mẹ Việt Nam yêu nước, đầy lòng hy sinh, kiên trì nhóm lửa, giữ lửa -Từ “bếp lửa”, đứa cháu nghĩ về “ngọn lửa”.Một hình tượng rất tráng lệ. “Bếp lửa bà nhen” sớm sớm chiều chiều đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình thương “luôn ủ sẵn”, ngọn lửa của niềm tin vô cùng “dai dẳng” bền bỉ và bất diệt. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian:”rồi sớm rồi chiều”, các động từ: “nhen”, “ủ sẵn” , “chứa” (chứa niềm tin dai dẳng) đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời loạn lạc: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng Bà thức khuya dậy sớm “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”, bà nhóm lửa cho thơm mùi khoai sắn, và: Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ (Bằng Việt- Bếp lửa) Ngọn lửa như một biểu tượng của tình thương vô cùng ấm áp . Hình ảnh người bà giàu yêu thương và hình ảnh ngọn lửa cứ trở đi, trở lại trong bài thơ, song mỗi lần no lại mang một ý nghĩa khác nhau.Khi thì nhóm bếp lửa ấp iu, nông đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh của sương sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình thương vô hạn của bà. Đến câu tiếp theo thì lòng bà còn mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo mới là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt sẻ bùi và đến câu “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”thì hoàn toàn mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy tâm tình tuổi nhỏ, nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ,những khát vọng của đàn cháu nhỏ.Bếp lửa bà đã nhóm lên ngọn lửa của tình yêu thương ấm áp. Bà thương cháu bao nhiêu thì cháu lại kính yêu và biết ơn bà bấy nhiêu: Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà , niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? Cuộc đời mới thật vui, thật đẹp,đã “có ngọn khói trăm tàu” đã “có ngọn lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”, nhưng cháu vẫn không nguôi nhớ bà, nhớ bếp lửa gia đình thương yêu. Không gian và thời gian xa cách, và dù cuộc đời có đổi thay, nhưng tình thương nhớ bà vẫn thiết tha mãnh liệt. -“Bếp lửa” là một bài thơ hay và độc đáo. Bài thơ không chỉ nói về bà, về tình bà cháu mà còn có ý nghĩa triết lý thầm kín; Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có lúc tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt cả cuộc đời . Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện của tình yêu thương , gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là khởi đầu của tình người, tình yêu nước. + Sau hình ảnh người bà là hình ảnh người mẹ. Viết về người mẹ Việt Nam thời chống Mĩ , bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ độc đáo và hay. Bà mẹ được nói đến là bà mẹ Tà-ôi có một tình thương mênh mông: thương con, thương làng đói, thương bộ đội ,thương đất nước. Bài thơ có 3 khúc ru được sáng tạo theo âm điệu dân ca, điệu ru con của đồng bào Tà-ôi trên miền núi Trị Thiên. Ba khúc hát ru đều mở đầu bằng hai câu: Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ và kết thúc bằng lời ru trực tiếp của người mẹ: Ngủ ngoan A Kay ơi, ngủ ngoan A Kay hỡi. đã thể hiện một cách đặc sắc tình cảm tha thiết , trìu mến của người mẹ giành cho con. Hình ảnh của người mẹ được gắn với hoàn cảnh và công việc cụ thể qua từng khúc hát. + Khúc hát thứ nhất người mẹ giã gạo nuôi bộ đội: Nhịp chày nghiêng và giấc ngủ em nghiêng Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối Lưng đưa nôi và tim hát thành lời Mẹ vất vả nên em vất vả theo. Mồ hôi ướt đẫm áo em nhưng bù lại em được say giấc nồng trên lưng mẹ và trong lời ru của mẹ: Lưng đưa nôi và tim hát thành lời Trong lời ru của mẹ ta thấy chứa chan tình yêu con, tình yêu bộ đội, yêu cách mạng và kháng chiến. Qua khúc hát ta thấy ước mơ của mẹ thật giản dị và cảm động biết bao: Mẹ ước mơ con lớn “Vung chày lún sân” + Khúc hát thứ hai, người mẹ tỉa bắp trên núi, nuôi làng nuôi bộ đội: Lưng núi thì to lưng mẹ nhỏ Hình ảnh đối lập gợi sự nhỏ bé của mẹ giữa rừng núi mênh mông heo hút, diễn tả sự chịu đựng gian khổ của người mẹ Tà-ôi. Ở khúc hát này, trong lời ru của mẹ ta thấy tình yêu con, tình yêu làng tha thiết và mẹ ước mơ con của mẹ lớn sẽ “Phát mười ka lưi...” + Khúc hát thứ ba: Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng Mẹ trực tiếp ra trận. “Mẹ đưa em đi để giành trận cuối”. Mẹ cùng em ra chiến trường , trực tiếp tham gia chiến đấu cùng “Anh trai”, “Chị gái” . Giờ đây mẹ ước mơ được thấy Bác Hồ, ước mơ: “Mai sau con lớn làm người tự do”. Hình ảnh người mẹ hiện lên trong mỗi khúc hát vừa có sự lặp lại, vừa có sự phát triển. Không gian làm việc của mẹ càng ngày càng mở rộng, từ giã gạo ở nhà đến phát rẫy trên nương và cuối cùng mẹ ra chiến trường. Trong mỗi khúc hát ta thấy lúc đầu mẹ là mẹ chiến sĩ, về sau chính mẹ là chiến sĩ. Những lời ru của mẹ - “tim hát thành lời” đó là tình cảm của mẹ, là khát khao ước vọng của mẹ đối với con mình. Nhưng ở đây tình mẫu tử thiêng liêng không phải chỉ dành cho một người con duy nhất của mẹ , tình thương đó còn dành cho bộ đội, cho dân làng và cho đất nước. Hiện tại, tương lai của con đều gắn liền với dân làng với cuộc kháng chiến của đất nước, dân tộc. Hình ảnh mẹ trong bài thơ không chỉ mang ý nghĩa cụ thể về một người mẹ Tà-ôi mà còn mang ý nghĩa khái quát. Trong cuộc kháng chiến thần thánh ấy có biết bao người như mẹ . Những người mẹ Việt Nam yêu con, yêu nước, sẵn sàng cống hiến , sẵn sàng tham gia vào cuộc kháng chiến vĩ đại vì độc lập tự do của dân tộc. + Có những người bà, người mẹ anh hùng nên mới có những đàn con cháu anh hùng, có những thế hệ anh hùng. Cô giao liên trong truyện “Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang sáng”đã đi tiếp con đường chiến đấu gian khổ, vô cùng oanh liệt vẻ vang của cha anh dào dạt sức sống trẻ trung và dũng mãnh. Cô lái xuồng giỏi, chỉ huy giỏi, có giác quan tinh tế kì lạ. Cô phân biệt chính xác mùi lính Mĩ và mùi lính ngụy, ánh sao đêm và đèn máy bay địch, tiếng trực thăng ở xa và tiếng xuồng máy ở gần. Cô mưu trí và dũng cảm lạ thường. Lọt vào phục kích của giặc, cô đã lập mưu đánh lừa chúng, an toàn vượt qua đường nguy hiểm. Cô gái ương ngạnh ngày nào đã trở thành cô giao liên tài ba, dũng cảm, đã làm cho người cán bộ già (ông Sáu) như thức trong giấc mơ. + “Những ngôi sao xa xôi” là tác phẩm nổi tiếng của Lê minh Khuê viết về những tấm gương anh hùng của các cô thanh niên xung phong trên con đường chiến lược Trường Sơn đánh Mĩ.Truyện đã ghi lại một cách chân thực chiến tích thầm lặng của tổ trinh sát mặt đường. Trọng điểm đang chìm trong mưa bom bão lửa, cảnh tượng chiến trường vắng lặng đến phát sợ. Cảnh vật bị hủy diệt: cây xơ xác, đất nóng, khói đen vật vờ từng cụm trong không trung. Phương Định dũng cảm và bình tĩnh tiến đến gần quả bom. Thần chết đang đợi chờ! Hai mươi phút trôi qua, tiếng còi chị Thao rúc lên, Định cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi vào dây mìn. Cô khỏa đất rồi chạy nhanh về chỗ nấp....Bom nổ, mảnh bom xé không khí, nổ váng óc....Nguy hiểm căng thẳng không thể nào kể xiết....Nho bị thương. Bom nổ hầm sập. Chị Thao và Định phải moi đất bế Nho lên. Máu tua ra ngấm vào đất. Chị Thao nghẹn ngào.Định rửa vết thương cho Nho, tiêm thuốc cho Nho, pha sữa cho Nho... Rồi chị Thao lại giục Phương Định hát. Đó là cuộc sống chiến đấu thường nhật của họ. Tác giả đã tái hiện cảnh phá bom vô cùng nguy hiểm, dựng lên một tượng đài về khí phách anh hùng lẫm liệt của tổ trinh sát mặt đường.Chiến công thầm lặng của họ bất tử với năm tháng và lòng người. Qua nhân vật Phương Định và các cô gái thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã gợi cho người đọc hình dung được phẩm chất tốt đẹp của thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ . Họ phải sống và chiến đấu rất gian khổ, hiểm nguy. Đó là những chàng trai, cô gái trẻ, dũng cảm, hiến dâng cả cuộc đời thanh xuân cho đất nước, sẵn sàng hy sinh tính mạng để hoàn thành nhiệm vụ . Họ có một thế giới nội tâm phong phú, đa dạng và rất trong sáng . Đặc biệt , những hình ảnh cao đẹp của các cô thanh niên xung phong trong truyện “Những ngôi sao xa xôi” tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam , cho thế hệ trẻ trong những năm tháng hào hùng của Tổ quốc. Truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong lòng ta hình ảnh tuyệt đẹp và những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường của Định , Nho , của chị Thao, của hàng ngàn, hàng vạn cô thanh niên xung phong thời chống Mĩ . Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài ca anh hùng. Chiến tranh đã đi qua, hôm nay đọc truyện “Những ngôi sao xa xôi”, ta như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước. Những Phương Định gần xa vẫn tỏa sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ III- Trên đây là một số gương mặt , tên tuổi, hình ảnh tuyệt đẹp về người phụ nữ Việt Nam . Đúng như Bác Hồ đã nói : “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ” . Nhà thơ Huy Cận trong bài “Ca ngợi người phụ nữ Việt Nam” có viết: Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử Nắng cho đời nên cũng năng cho thơ
Tài liệu đính kèm: