Giáo án môn học Ngữ văn 9 - Tiết học 119: Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)

Giáo án môn học Ngữ văn 9 - Tiết học 119: Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)

TẬP LÀM VĂN :

 CÁCH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN

 VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN( HOẶC ĐOẠN TRÍCH)

I-Mục tiêu cần đạt : Giúp HS :

-Biết cách viết bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cho đúng với yêu cầu đã học ở tiết trước.

-Rèn luyện kĩ năng thực hiện các bước khi làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), cách tổ chức, triển khai các luận điểm.

II-Chuẩn bị : -GV : giáo án, sgk

 -HS : sgk, bài soạn, bài học.

III-Lên lớp :

 1-On định

 2-KT bài cũ :

 a-Thế nào là nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)?

 b-Những yêu cầu về tác phẩm truyện.

 3-Bài mới

 A-Vào bài : Để làm bài nghị luận cho tốt, cần tìm hiểu đề và ý. Tiết này, ta cần tìm hiểu về vấn đề này.

 

doc 5 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 574Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn học Ngữ văn 9 - Tiết học 119: Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NS:.................. TIẾT 119
NG:9A...................
 9B...................
TẬP LÀM VĂN :
 CÁCH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN
 VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN( HOẶC ĐOẠN TRÍCH)
I-Mục tiêu cần đạt : Giúp HS :
-Biết cách viết bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cho đúng với yêu cầu đã học ở tiết trước.
-Rèn luyện kĩ năng thực hiện các bước khi làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), cách tổ chức, triển khai các luận điểm.
II-Chuẩn bị : -GV : giáo án, sgk
 -HS : sgk, bài soạn, bài học.
III-Lên lớp :
 1-Oån định
 2-KT bài cũ :
 a-Thế nào là nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)?
 b-Những yêu cầu về tác phẩm truyện.
 3-Bài mới 
 A-Vào bài : Để làm bài nghị luận cho tốt, cần tìm hiểu đề và ý. Tiết này, ta cần tìm hiểu về vấn đề này.
 B-Tiến trình hoạt động
 Hoạt động của thầy & trò
 Nội dung hoạt động
Hoạt động 1
*HS đọc 4 đề trong sgk
1-H: Các đề bài trên yêu cầu nghị luận về vấn đề gì?
I-Đề bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
 1-Vấn đề nghị luận :
Đề 1 : nghị luận về “thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ”.
Đề 2 : nghị luận về “diễn biến cốt truyện”.
Đề 3 : nghị luận về “thân phận Thuý Kiều”.
Đề 4 : nghị luận về “đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh”.
2-H: Các từ “suy nghĩ”, “phân tích” cho ta biết giữa các đề bài có sự giống và khác nhau ntn?
2-Giống nhau : đều là kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
*Khác nhau : 
-“Suy nghĩ” là xuất phát từ sự cảm, hiểu của mình để nhận xét, đánh giá tác phẩm.
-“Phân tích” là xuất phát từ tác phẩm để lập luận và sau đó nhận xét, đánh giá tác phẩm.
Hoạt động 2
*HS đọc đề 
H: Đề yêu cầu nghị luận về nhân vật nào?
H: Đề có từ “suy nghĩ” làm theo phương pháp nào?
*GV: Các câu hỏi để tìm ý 
H: Cái gì là nét nổi bật nhất ở nhân vật ông Hai?
H: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai được bộc lộ trong tình huống nào?
H: Tình cảm mới mẻ ấy có đặc điểm gì trong thời kì đầu kháng chiến chống thực dân Pháp?
H: Những nét nghệ thuật nào chứng tỏ 1 cách sinh động, thú vị tình yêu làng và lòng yêu nước ấy?
II-Các bước làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
Đề: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
 1-Tìm hiểu đề :
a-Yêu cầu : nghị luận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng”
b-Phương pháp : xuất phát từ sự cảm, hiểu của bản thân.
 2-Tìm ý :
a-Phẩm chất điển hình của ông Hai : tình yêu làng gắn bó, hoà quyện với lòng yêu nước.
b-Tình huống bộc lộ tình yêu làng, yêu nước : nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
c-Tình cảm : là nét mới trong đời sống tinh thần của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
d-Các chi tiết nghệ thuật (tâm trạng, lời nói, cử chỉ, hành động ) chứng tỏ tình yêu làng, yêu nước ?
Hoạt động 3 :Lập dàn bài
H: Phần mở bài phải đạt những yêu cầu nào?
 3-Lập dàn bài :
I-Mở bài :
 +Giới thiệu nhà văn Kim Lân là thanh niên Hà Nội tham gia cách mạng năm 1944.
 +Giới thiệu tên truyện ngắn “Làng”.
 +Nhân vật chính : ông Hai.
 +Đánh giá ngắn gọn thành công của tác giả trong việc xây dựng nhân vật này.
H: Phần thân bài cần làm rõ mấy ý?
Đ: 2 ý :
+Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai.
+Nghệ thuật đặc sắc của truyện.
II-Thân bài
 a-Tình yêu làng gắn bó, hoà quyện với lòng yêu nước :
-Khi tản cư, ông Hai nghĩ đến những ngày hoạt động kháng chiến giữ làng cùng anh em, đồng đội; điều đó chứng tỏ tình yêu làng của ông Hai gắn bó với tình cảm kháng chiến.
-Luôn theo dõi tin tức kháng chiến. 
=>Oâng không chỉ là công dân của làng mà còn là một chiến sĩ đã từng tham gia đánh giặc giữ làng.
-Tình cờ nghe tin làng theo giặc, ông sững sờ, nghẹn ngào và có mặc cảm xấu hổ, bẽ bàng với ý nghĩ : “Làng thì yêu thật, nhưng làng đã theo Tây mất rồi thì phải thù!”.
-Khi tin đồn được cải chính thì ông Hai lại rạng rỡ, lại hào hứng kể chuyện làng và tự hào về cái làng của mình.
 b-Nghệ thuật xây dựng nhân vật :
-Các chi tiết miêu tả hành động của ông Hai :
 +Khi nghe tin làng theo giặc.
 +Khi nói chuyện với bà Hai.
 +Khi tin đồn được cải chính.
-Các chi tiết miêu tả nội tâm của ông Hai :
 +Thông qua đối thoại.
 +Thông qua độc thoại.
III-Kết bài : Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật ông Hai và khẳng định thành công của tác giả trong việc xây dựng tình huống truyện, xây dựng nhân vật.
Hoạt động 4 : 
 4-Viết bài :
I-Mở bài : (2 cách như sgk).
II-Thân bài :
 1-Tình yêu làng gắn với lòng yêu nước :
-Khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai như điếng người đi, tưởng như không thở được nữa : “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân.” . Một lúc lâu, ông mới trấn tĩnh lại được phần nào, ông cố chưa tin cái tin khủng khiếp ấy:“cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi.” Nhưng rồi những người tản cư kể quá rành rọt, và họ khẳng định “vừa dưới ấy lên”, làm ông không thể không tin được.
-Vốn yêu làng và tự hào về làng của mình cái gì cũng đẹp, cũng nhất, cũng hay.Nên khi nghe cái tin khủng khiếp ấy, ông Hai rơi vào tâm trạng tuyệt vọng, khủng hoảng. Cử chỉ đầu tiên của ông là “cúi gầm mặt xuống mà đi”, vì cảm thấy nhục nhã, xấu hổ ê chề, đi trong sự trốn tránh. Về đến nhà, “ông nằm vật ra giường”. Nhìn lũ con, ông tủi thân “nước mắt cứ giàn ra”. Đó là những giọt nước mắt của lòng thương con và căm giận làng tại sao phản bội, đầu hàng giặc. Lúc này, tâm trí của ông có sự mâu thuẫn, ông kiểm nghiệm lại trong óc của mình những người ở lại làng đều là những người anh dũng, có quyết tâm cao: “họ toàn là người có tinh thần cả mà”. Nhưng chứng cứ quá rõ ràng ông đành chấp nhận sự thật quá nhục nhã này. Oâng cố kiềm nén sự đau đớn ấy, ông trở nên cáo gắt, trút sự bực dọc lên đầu bà Hai. Tâm trạng suốt mấy ngày sau đó : không ngủ được, trằn trọc thở dài, lo lắng đến chân tay nhủn ra, nín thở khi nghe loáng thoáng tiếng cười nói xa xa. Suốt mấy ngày liền, ông chẳng dám đi đâu xa, ngay cả đến nhà bác Thứ cũng không dám sang “lúc nào cũng nơm nớp lo sợ” tưởng như người ta đang theo dõi mình. Oâng Hai bị đẩy vào tình thế tuyệt vọng, bế tắc. Không biết sẽ sinh sống ra sao? Ở đâu? Những câu hỏi liên tiếp cuộn trào lên đầu ông già khốn khổ. Trong giây phút tuyệt vọng ấy, ông Hai chớm có ý định “quay về làng”. Nhưng ngay lập tức trong ông Hai diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm quyết liệt “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cuối cùng ông Hai chọn cách giải quyết mâu thuẫn nội tâm là “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.”. Mặc dù đã xác định như thế, nhưng ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê. Vì thế, ông càng đau xót tủi hổ. Để vơi đi phần nào nỗi đau đớn đó, ông tâm sự với thằng con út, để tự nhủ với mình, tự giãy bày nỗi lòng mình “để ngỏ lòng mình”. Tấm lòng của ông Hai đối với làng quê là như thế, còn đối với kháng chiến thì “Anh em đồng chí có biết cho bố con ông.” “Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.”
-Cuộc sống ông Hai tưởng cứ âm thầm tủi nhục, chẳng còn tiếng cười tiếng nói nhưng may sao có một ngày ông Hai bổng vui tươi rạng rỡ hẳn lên. Đó là ngày ông đi hết nhà này sang nhà khác cải chính cho mọi người hay làng Chợ Dầu không theo Tây. Thậm chí còn vui mừng khi hay tin làng Chợ Dầu bị đốt, nhà mình bị đốt vì điều đó chứng tỏ làng ông không phải Việt gian
 2-Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai
 *Những hành động :
 Miêu tả đúng các “phản ứng” bằng hành động của một nông dân hiền lành, chất phác và chưa đọc thạo chữ viết :
 -Khi muốn biết tin tức thì : “ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc êòi nghe lõm.”
 -Khi nghe tin làng theo giặc thì : “Oâng Hai cúi gằm mặt xuống mà đi” , rồi “nắm chặt hai tay lại mà rít lên” : “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cai giống Việt gian bán nứơc để nhục nhả thế này.”
 -Khi nghe tin cải chính thì : “Oâng lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”.
*Tâm trạng :
 Miêu tả đúng tâm trạng của một nông dân yêu nước một cách hồn nhiên, trong sáng :
 -Khi nghe tin làng theo giặc thì bị dằn vặt, đau khổ : ba bốn hôm không bước ra ngoài, kể cả nhà bác Thứ. Nghe ngóng binh tình bên ngoài. Một đám túm lại cũng để ý 
 -Khi nghe tin cải chính thì : “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.
 -Ngoài ra còn hành động, thái độ của ông Hai đối với bà Hai, các con, mụ chủ nhà
III-Kết bài (sgk)
4-Đọc bài & sửa chữa 
*Ghi nhớ (sgk /T68)
Hoạt động 5 : Luyện tập 
 Đề :Suy nghĩ của em về truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.
Hãy viết phần Mở bài & một đoạn phần thân bài.
 Mở bài :
 a-Mở bài trực tiếp : Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long đã để lại cho em những suy nghĩ sâu sắc về những người làm việc âm thầm cho đất nước. Nhân vật anh thanh niên là nhà khoa học trẻ tuổi có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, là người có lối sống giản dị và rất tình người.
 b-Mở bài gián tiếp : Trong cuộc sống, có những âm thanh rất nhỏ, gần như lặng im nhưng lại đi rất xa và tạo nên âm vang. Có những người nói rất ít (nhất là nói về mình) lại được hiểu rất nhiều, rất sâu sắc. Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một người như thế. Anh để lại cho những người gặp anh một ấn tượng tốt về anh.
II-Thân bài 
 Trong một cuộc gặp gỡ tình cờ giữa những người khách trên xe với anh thanh niên, qua lời kể của bác lái xe, nhà văn Nguyễn Thành Long đã cho ta thấy chân dung nhà khoa học trẻ. Anh thanh niên “làm công tác khí tượng kiêm vật lí đại cầu”, hai mươi bảy tuổi, công việc hằng ngày của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Anh không phải là con người đặc biệt. Anh có dáng người nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ, thậm chí tên của anh, tác giả cũng không giới thiệu. Hình như nhà văn muốn nói rằng : người như anh rất nhiều, ta gặp rất nhiều trong cuộc sống hằng ngày. Cuộc gặp ngắn ngủi, chưa đầy nửa tiếng thôi, mà hoạ sĩ và cô kĩ sư đã nhận ra vẻ đẹp cao quý ở anh, không phải qua lời lẽ, mà qua những cái gì toát lên từ con người anh, có lẽ từ chính công việc của anh.
4-Củng cố : Hệ thống kiến thức.
5-Dặn dò : Học bài . Chuẩn bị “Luyện tập làm bài nghị luận về tác phẩm truyện”
IV/ Rút kinh nghiệm

Tài liệu đính kèm:

  • docT 119.doc