Đề bài: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Đề bài: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại là điểm hội tụ, nơi gặp gỡ của muôn

triệu tấm lòng yêu nước. Biết bao người con của Tổ quốc đã ra đi vì tiếng

gọi cứu nước thiêng liêng. Họ ra đi để lại sau lưng khoảng trời xanh quê

nhà, bờ tre, ruộng lúa, bến nước, gốc đa Họ ra đi, sát cánh bên nhau

chung hưởng niềm vui, chia sẻ gian lao thiếu thốn và trở nên thân thương

gắn bó. Tình đồng đội, đồng chí bắt nguồn từ đó

Mối tình cao quý ấy được diễn tả trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu,

đó là lời tâm tình của người trong cuộc, của một nhà thơ chiến sĩ.

Non nửa thế kỉ trôi qua, bài thơ đã thực sự đi vào lòng bao nhiêu thế hệ

và đến hôm nay vẫn ngân rung những sợi dây tình cảm nối liền những người

chiến sĩ, nối chúng ta lại với nhau, giúp ta hiểu hơn cuộc sống và tâm sự của

ông cha mình:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!

pdf 5 trang Người đăng duyphuonghn Lượt xem 535Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề bài: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài làm 
Cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại là điểm hội tụ, nơi gặp gỡ của muôn 
triệu tấm lòng yêu nước. Biết bao người con của Tổ quốc đã ra đi vì tiếng 
gọi cứu nước thiêng liêng. Họ ra đi để lại sau lưng khoảng trời xanh quê 
nhà, bờ tre, ruộng lúa, bến nước, gốc đa Họ ra đi, sát cánh bên nhau 
chung hưởng niềm vui, chia sẻ gian lao thiếu thốn và trở nên thân thương 
gắn bó. Tình đồng đội, đồng chí bắt nguồn từ đó 
Mối tình cao quý ấy được diễn tả trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, 
đó là lời tâm tình của người trong cuộc, của một nhà thơ chiến sĩ. 
Non nửa thế kỉ trôi qua, bài thơ đã thực sự đi vào lòng bao nhiêu thế hệ 
và đến hôm nay vẫn ngân rung những sợi dây tình cảm nối liền những người 
chiến sĩ, nối chúng ta lại với nhau, giúp ta hiểu hơn cuộc sống và tâm sự của 
ông cha mình: 
 Quê hương anh nước mặn đồng chua 
 Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá 
 Tôi với anh đôi người xa lạ 
 Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau 
 Súng bên súng, đầu sát bên đầu 
 Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ 
 Đồng chí! 
 Ruộng nương anh gửi bạn thân cày 
 Gian nhan không, mặc kệ gió lung lay 
 Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính 
 Anh với tôi biết từng cơn ấm lạnh 
 Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. 
 Áo anh rách vai 
 Quần tôi có vài mảnh vá 
 Miệng cười buốt giá 
 Chân không giày 
 Thương nhau tay nắm lấy bàn tay 
 Đêm nay rừng hoang sương muối 
 Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới 
 Đầu súng trăng treo. 
Bài thơ mở đầu bằng những dòng tâm sự. Lời thơ mộc mạc tự nhiên 
dường như chẳng có gì khác với lời ăn tiếng nói hàng ngày: 
 Quê hương anh nước mặn đồng chua 
 Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá 
 Tôi với anh đôi người xa lạ 
 Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau 
Hình ảnh quê hương anh và làng tôi hiện lên với bao vất vả nhọc nhằn 
mặc dù nhà thơ không chú ý miêu tả. Song chính điều đó lại làm cho những 
hình ảnh vốn chỉ là những danh từ rất chung chung kia trở nên cụ thể, sống 
thực đến mức gần như có thể nhìn thấy được, nhất là đối với đôi mắt của 
người con làng quê Việt Nam. Câu thơ gợi lên sự cảm thông, liên tưởng và 
những suy nghĩ đồng điệu của những con người cùng cảnh ngộ, những 
người nông dân lớn lên giữa những miền quê cơ cực, nghèo khổ, lam lũ, 
nhọc nhằn. Thành ngữ nước mặn đồng chua vào câu thơ cũng tự nhiên, giản 
dị như là cuộc sống gian nan vất vả kia đã hiện lên vậy. 
Và cũng thật là giản dị, không hẹn mà họ đến với nhau từ những phương 
trời cách biệt, từ những mảnh đời, của cùng một đất nước, cùng một hoàn 
cảnh Đó chính là sự hẹn hò, gặp gỡ từ bên trong tất yếu đưa họ đến cùng 
nhau, hội tụ với nhau nơi đỉnh cao của lòng yêu nước. Giờ đây sát cánh bên 
nhau trong cuộc đấu tranh giữ nước, hơn bao giờ hết họ cảm nhận được sự 
hòa hợp, gắn bó keo sơn của những con người cùng chung hành động, cùng 
chung lí tưởng: 
 Súng bên súng, đầu sát bên đầu 
 Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ 
Ngôn ngữ thơ giản dị như văn kể chuyện, chắc khỏe mà thanh thoát như 
chính cuộc đời người lính, biểu hiện tư thế của người chiến sĩ khi có giặc – 
vừa là một bức tranh tả thực, vừa mang ý nghĩa tượng tưng: súng bên súng – 
chung hành động, đầu sát bên đầu – chung lí tưởng. Ấy là cội nguồn của 
sức mạnh. 
Bỗng dưng đoạn thơ đột ngột dứt ra hai tiếng Đồng chí! thành một khổ 
thơ riêng như buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về tình cảm thiêng liêng 
mà hai tiếng ấy gợi ra. Đồng chí, hai tiếng quen thuộc và giản dị bỗng mang 
biết bao ý nghĩa khi đứng giữa bài thơ – như một cái lưng ong thắt lại, tạo ra 
một kết cấu mới lạ, một kết cấu chính luận trong thơ (theo Nguyễn Đức 
Quyền) và dấu chấm than đi kèm hai tiếng ấy bỗng như chất chứa bao 
nhiêu trìu mến thân thương. Hai tiếng, hai tiếng thôi mà nói được rất nhiều 
Những lời thơ tiếp theo vẫn là những dòng tâm tình mang nặng bâng 
khuâng thương nhớ: 
 Ruộng nương anh gửi bạn thân cày 
 Gian nhan không, mặc kệ gió lung lay 
 Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính 
Câu thơ gợi nhớ biết bao hình ảnh thân quen – không bộc lộ cảm xúc trực 
tiếp nhưng khi đọc lên nghe nhớ nhung lưu luyến đến nao lòng. Từ mặc kệ 
bỗng làm ta liên tưởng đến hình ảnh người chiến sĩ trong bài Đất nước của 
Nguyễn Đình Thi: 
 Người ra đi đầu không ngoảnh lại 
 Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. 
Thơ là ý tại ngôn ngoại. Mặc kệ hay đầu không ngoảnh lại chẳng qua là 
cách nói khác nhau nhưng đều biểu lộ một ý chí quyết tâm muốn vượt lên 
những tình cảm nhớ nhung. Ở đây người chiến sĩ phải cố gắng dùng lí trí để 
chế ngự tình cảm vốn thắm thiết ở bên trong. Nhưng càng chế ngự thì nỗi 
nhớ nhung càng trở nên da diết, đến mức như cảm thấy được từng cơn gió 
giật lung lay mái lá ngôi nhà thân thương. Tình cảm như vậy thì không thể 
nào nghĩ đến chuyện đo đếm nữa. 
Hình ảnh giếng nước gốc đa nhớ người ra lính càng tô đậm thêm sự gắn 
bó yêu thương của người lính đối với quê nhà. Hình ảnh ấy vừa được sử 
dụng như một phép hoán dụ (giếng nước gốc đa biểu hiện cho làng quê Việt 
Nam – quê hương người lính), vừa được sử dụng như một phép nhân hóa 
(giếng nước gốc đa nhớ nhung một con người) – nó giúp người lính diễn tả 
một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng nước gốc đa kia nhớ 
người lính hay chính tấm lòng người ra lính không nguôi thương nhớ quê 
hương và đã tạo cho giếng nước gốc đa một tâm hồn? Quả thực giữa người 
chiến sĩ và quê hương anh đã có một mối giao cảm vô cùng sâu sắc, đậm đà 
– nếu không, nhà thơ làm sao có thể hình dung ra được bấy nhiêu nhớ nhung 
lưu luyến, bấy nhiêu hình ảnh thân thương? 
Diễn tả nỗi niềm nhớ thương như thế, nhà thơ đã nói lên được một tình 
cảm bình dị, hồn nhiên và rất thật của người chiến sĩ. Đó cũng là một tình 
cảm lớn lao không kém gì lòng yêu Tổ quốc, hay nói đúng hơn cũng chính 
là lòng yêu Tổ quốc, là biểu hiện cụ thể của tình cảm đối với Tổ quốc. 
Người chiến sĩ ra đi để làm gì nếu không phải là để giải phóng đồng đội, 
cũng là nguồn sức mạnh giúp người chiến sĩ vượt lên mọi thiếu thốn hiểm 
nguy để chiến thắng kẻ thù. 
Đoạn thơ tiếp theo gợi lại những khó khăn gian khổ mà người lính phải 
chịu đựng, phải trải qua. Nhưng câu thơ không nhằm kể khổ. Câu thơ muốn 
nói về tấm lòng của những người con trong gian khổ Hình ảnh các chiến 
sĩ thương nhau tay nắm lấy bàn tay sao mà thân thương cảm động! Bàn tay 
nóng ấm tình người, sưởi ấm cho nhau trong giá buốt cái nắm tay chất 
chứa bao tình cảm không lời. 
Ở ba câu dòng thơ cuối hiện lên một bức tranh cụ thể, xác thực, giàu hình 
ảnh và vô cùng gợi cảm. 
 Đêm nay rừng hoang sương muối 
 Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới 
 Đầu súng trăng treo. 
Hùng vĩ và cảm động làm sao cảnh những người chiến sĩ đứng cạnh nhau 
chờ giặc, giữa sương muối đêm rừng giá lạnh, giữa thiên nhiên hoang vắng 
và khắc nghiệt! Từ chờ được sử dụng tự nhiên như vẽ ra một diện mạo, một 
tư thế – cái tư thế sẵn sàng, chủ động tiến công. 
Và đột ngột, đột ngột mà rạng rỡ – hình ảnh đầu súng trăng treo kết thúc 
bài thơ một cách tự nhiên, đẹp đẽ và đầy thi vị. Đầu súng trăng treo chỉ có 
bốn từ, chỉ có súng và trăng! Thật lạ lùng sao, hai hình ảnh vốn tương phản, 
cách xa vời vợi bỗng hòa quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. 
Nhà thơ không tả, nhưng tự nó gợi ra khung cảnh những người chiến sĩ – 
bên nhau – chờ giặc. Đêm về khuya, vầng trăng chênh chếch như treo trên 
đầu mũi súng. Một hình ảnh hư thực. Nhưng phải là một tâm hồn thơ giàu 
chất lãng mạn, trí tưởng tượng, một phong thái ung dung, bình tĩnh lạc quan 
mới có thể tạo nên một hình ảnh thật thơ như thế. 
Người chiến sĩ trong bài thơ chờ giặc nhưng lại thả hồn mình hướng cái 
nhìn của mình về phía vầng trăng. Ánh trăng yên bình thơ mộng như xua tan 
băng giá, như cùng tham gia, cùng chứng kiến tình đồng chí của anh. 
Súng tượng trưng chiến đấu. Trăng là hình ảnh của thanh bình. Súng là 
con người, trăng là đất nước quê hương. Súng – hình ảnh người chiến sĩ, 
Trăng – hình ảnh người thi sĩ. Hai hình ảnh kết hợp hài hòa, vừa hiện thực 
vừa lãng mạn bay bổng, vừa gợi tả cụ thể vừa giàu sức khái quát, nói lên lí 
tưởng chiến đấu, mục đích của cuộc kháng chiến mà người chiến sĩ tham 
gia: chiến đấu cho yên bình, cho ánh trăng mãi mãi nghiêng người trên đỉnh 
núi ấy. Ấy là biểu tượng thi vị của khát vọng hòa bình. Nó cũng biểu hiện 
được tâm hồn, tư thế của người chiến sĩ: bình tĩnh, lạc quan, dũng cảm và 
lãng mạn. 
Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ đã chọn hình ảnh đầu súng trăng treo 
làm tựa cho cả tập thơ chiến sĩ của mình, đây là một biểu hiện tuyệt vời của 
chất lãng mạn trong thơ. 
Viết về người lính, bài Đồng chí có một dáng dấp đặc biệt: giọng thơ như 
thủ thỉ tâm tình, bình dị sâu lắng mà giàu sắc thái gợi cảm. Hình ảnh mộc 
mạc, xác thực và giàu chất thơ. Nhưng hơn tất cả, bài thơ đã chinh phục 
người đọc bằng xúc cảm chân thực sâu sắc của chính tâm hồn chiến sĩ, của 
chính tình đồng chí thiêng liêng mà nhà thơ đã từng, từng trải qua. 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_bai_phan_tich_bai_tho_dong_chi_cua_chinh_huu.pdf