Tại kỳ họp của Quốc hội khoá X năm 2000, Quốc hội X đã thông qua Nghị quyết số 40/2000/QH10 về vấn đề đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Tiếp đó ngày 11/6/2001 Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg về đổi mới giáo dục phổ thông. Trong đó nhấn mạnh mục tiêu của chương trình đổi mới giáo dục phổ thông là nhằm thay đổi cách dạy và học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh. Một trong những phương pháp để tích cực hoá hoạt động dạy và học đó là việc dạy học liên môn.
phần I: Những vấn đề chung 1. Cơ sở lý luận: Tại kỳ họp của Quốc hội khoá X năm 2000, Quốc hội X đã thông qua Nghị quyết số 40/2000/QH10 về vấn đề đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Tiếp đó ngày 11/6/2001 Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg về đổi mới giáo dục phổ thông. Trong đó nhấn mạnh mục tiêu của chương trình đổi mới giáo dục phổ thông là nhằm thay đổi cách dạy và học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh. Một trong những phương pháp để tích cực hoá hoạt động dạy và học đó là việc dạy học liên môn. Dạy học liên môn là 1 trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học ở trường phổ thông nói chung, môn lịch sử nói riêng. Nó góp phần bổ sung lượng kiến thức các môn học khác cho bài học, giúp học sinh hứng thú say mê học tập, góp phần nâng cao hiệu quả bài học. Mặt khác, bộ môn lịch sử cung cấp cho học sinh những tri thức ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc và thế giới (cả tri thức về khoa học xã hội và khoa học tự nhiên). Do đó việc dạy học liên môn là dùng các kiến thức ở các bộ môn khác bổ sung, hỗ trợ làm sáng rõ hơn kiến thức mà học sinh đang được học trong môn học, cụ thể ở đây là bộ môn lịch sử và việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịc sử. Từ cơ sở đó tôi mạnh dạn xin trình bày 1 số kinh nghiệm về sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử. 2. Cơ sở thực tiễn: “Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ; lịch sử loài người mà chúng ta học là toàn bộ những hoạt động của con người từ khi xuất hiện đến nay” (SGK Lịch sử 6 – trang 3 – NXB Giáo dục năm 2002). Như vậy, qua khái niệm trên chúng ta đều thấy rằng: Việc học lịch sử có nét đặc trưng riêng, có cái khó riêng. Đó là người học không thể tri giác trực tiếp; không thể “sờ” hay làm thí nghiệm trong phòng thí nghiệm.... mà buộc phải tư duy, phải trừu tượng hoá, khái quát hoá để dựng lại những gì đã diễn ra trong quá khứ, thông qua các sự kiện, niên đại, nhân vật.... .Để làm được điều đó ngoài việc sử dụng các nguồn tư liệu sử học (hiện vật, văn tự cổ....) thì việc sử dụng các tác phẩm văn học cũng có tác dụng rất lớn trong việc “dựng lại” lịch sử. Bên cạnh đó, việc dạy và học lịch sử ở nhiều trường phổ thông hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Đó là tình trạng đại bộ phận học sinh đang dần “xa lánh” môn lịch sử, không còn hứng thú với việc học tập môn lịch sử. Đây là thực trạng đáng buồn. Bởi vì, sử học ở trường phổ thông có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm và hình thành nhân cách của học sinh. Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng trên, theo tôi có nhiều nguyên nhân (gia đình – xã hội – nhà trường). Trong đó 1 nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện tượng trên đó là: Giáo viên dạy sử còn để giờ dạy sử quá khô khan, nặng nề nên thiếu sự thu hút đối với học sinh. Do đó, để khắc phục hiện tượng này, theo tôi ngoài việc đổi mới phương pháp, tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan.... thì chúng ta nên sử dụng nhiều hơn nữa nguồn tài liệu văn học trong giờ học lịch sử để làm bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn hơn. 3. Những thuận lợi – khó khăn khi nghiên cứu: 3.1. Thuận lợi: Bản thân có sứckhoẻ tốt, có thời gian công tác giảng dạy; được BGH, tổ chuyên môn cùng đồng nghiệp trong đơn vị giúp đỡ, tạo điều kiện để hoàn thành. 3.2 Khó khăn: - Nguồn tài liệu tham khảo còn hiếm, khó sưu tầm (đặc biệt nguồn văn học dân gian). - Phương pháp nghiên cứu, trình bày, phân tích còn 1 số hạn chế.... 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp sưu tầm sử liệu. - Phương pháp phân tích. - Phương pháp tổng hợp. - Phương pháp khái quát. - Thể nghiệm trên lớp. 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng: học sinh các khối lớp 7, 8, 9. - Phạm vi nghiên cứu: học sinh trường THCS Nhõn Thắng phần ii: Nội dung 1. Tài liệu tham khảo trong :Dạy học lịch sử Theo tiến sĩ N.G Đairi trong cuốn “chuẩn bị bài học lịch sử như thế nào” (NXB Giáo dục Hà Nội 1973 – trang 35). Thì bài giảng lịch sử trên lớp nên thực hiện theo sơ đồ sau: 1 2 2 3 Trong đó, con số 1 chỉ phần tài liệu tham khảo không có trong SGK, giáo viên đưa vào bài giảng nhằm nâng cao tính khoa học, sự trong sáng vừa sức, sự hấp dẫn lôi cuốn của giờ học lịch sử. Ngoài SGK, tài liệu tham khảo có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc làm phong phú kiến thức lịch sử đang học, hiểu sâu hơn quá khứ, tạo bài giảng hấp dẫn, sinh động có sức lôi cuốn học sinh. Phân loại tài liệu tham khảo, theo tài liệu BDTX chu kì 3, nó có các loại như sau: - Tài liệu lịch sử gốc: Gồm các văn kiện, tài liệu có liên quan trực tiếp đến sự kiện, ra đời vào thời điểm xảy ra sự kiện như các hiệp ước, điều ước, tuyên ngôn.... Ví dụ: Hiệp ước Hác Măng (1883); tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước VNDCCH (2/9/1945). - Tài liệu, văn kiện của Đảng, Nhà nước, phong trào công nhân và cộng sản Quốc tế.... - Các tài liệu văn học (văn học dân gian, văn học bác học). - Tài liệu lịch sử rút ra từ các công trình nghiên cứu sử học, dân tộc học.... Như vậy, trong giờ dạy học việc sử dụng tài liệu tham khảo giúp học sinh có thêm cơ sở để nắm vững, hiểu bản chất sự kiện lịch sử; hình thành khái niệm, hiểu rõ quy luật, bài học của lịch sử. Nó giúp các em khắc phục việc “hiện đại hoá” lịch sủ hoặc “hư cấu” sai sự thực lịch sử. 2. Sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử: 2.1. Vai trò, ý nghĩa của tài liệu văn học: Tài liệu văn học trong quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông có vai trò to lớn. Trước hết, các tác phẩm văn học với những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, nó giúp học sinh tiếp nhận kiến thức, khắc sâu kiến thức 1 cách dễ dàng hơn. Ví dụ: Khi dạy bài 20 (lịch sử 6) – “Từ sau Trưng Vương đến trước Lí Nam Đế” ở mục 4. Cuộc khởi n ghĩa Bà Triệu (năm 248) để khắc sâu hình ảnh oai phong của Bà Triệu khi xung trận giáo viên nên sử dụng 2 câu thơ sau: Hoành qua đương hổ dị (Vung giáo chống hổ dể) Đối diện bà vương nan (Giáp mặt vua Bà Khó) Thứ hai, các tác phẩm văn học góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn nâng cao, hứng thú của học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài 27 (lịch sử 7) chế độ phong kiến nhà Nguyễn. mục II. Các cuộc nổi dậy của nhân dân; khi dạy về cuộc khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854 - 1856) để khắc sâu về nhân vật lịch sử này và làm phong phú thêm bài giảng. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh bài thơ Cao Bá Quát viết khi ông đi phục dịch phái đoàn nước ta sang nước ngoài. “Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói Kéo áo rì rầm chuyện với nhau.... .... Uốn éo đòi chồng nâng trở dậy Biết đâu đến khách biệt ly này.” 2.2. Các loại tài liệu văn học và cách sử dụng: Trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông tuỳ vào từng khoá trình, nội dung từng bài, từng phần mà giáo viên có thể đưa vào bài giảng các loại tài liệu văn học khác nhau như: Văn học dân gian; tác phẩm văn học ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử; Tiểu thuyết lịch sử; Hồi kí cách mạng.... Mỗi loại lại có ý nghĩa khoa học riêng, dó đó khi sử dụng phải phù hợp với yêu cầu bài giảng; với từng sự kiện, nhân vật lịch sử mà giáo viên lựa chọn đưa vào. a) Văn học dân gian: VHDG ra đời từ rất sớm và rất phong phú với nhiều thể loại khác nhau như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, dân ca.... Đây là những tài liệu có giá trị, nó phản ánh nội dung nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. Ví dụ như: khi dạy bài 15 “Nước Âu Lạc”. Khi giảng dạy về việc xây dựng thành Cổ Loa và cuộc kháng chiến chống quân xâm lượcTriệu, giáo viên có thể đưa vào đó 1 số câu chuyện cổ tích về Nỏ Thần, về xây Thành Cổ Loa. Nhưng quan trọng hơn là qua những câu chuyện đó giáo viên phải giúp học sinh thấy được bước tiến lớn của quân dân Âu Lạc về kĩ thuật xây dựng cũng như kĩ thuật chế tác vũ khí. Các loại hình văn học dân gian còn góp phần minh hoạ, làm rõ sự kiện, nhân vật lịch sử. Do đó, giáo viên nên đưa vào để học sinh hiểu rõ hơn về sự kiện, nhân vật lịch sử đó. Ví như khi dạy bài 23 (lịch sử 6). Những cuộc khởi nghĩa lớn trong các thế kỉ VII – IX. Mục 2 khởi nghĩa Mai Trúc Loan (722) để làm rõ sự kiện, nhân vật. Giáo viên có thể đưa vào đoạn thơ sau: “Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng Vạn An thành luỹ khói hương xông Bốn phương Mai Đế lừng uy đức Trăm trận Lý Đường phục võ công.... .... Đường đi cống vai từ đây đứt Dân nước đời đời hưởng phúc chung.” Không những vậy, tài liệu văn học dân gian còn làm cho bài học sinh động, tạo được không khí gần gũi với bối cảnh lịch sử đang học. Nó phản ánh những hiểu biết về các sự kiện lịch sử đang học, giúp học sinh hiểu được vấn đề cụ thể rõ ràng hơn. Ví như khi dạy bài 25 (lịch sử 8) kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873 - 1884). Mục II – phần 2, nhân dân Bắc Kì tiếp tục kháng Pháp. Để làm cho học sinh hiểu rõ tình cảnh rối ren của triều Nguyễn khi Tự Đức mất cũng như hiểu tại sao Pháp lại không nhân nhượng triều Nguyễn như năm 1874 nữa. Giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe 2 câu ca dao sau: “Một nhà sinh được Ba vua Vua sống, vua chết, vua thua chạy dài.” (Ba vua này là Đồng Khánh (sống) Kiến Phúc (chết) Hàm Nghi chạy ra Sơn phòng đều là con của Kiến Thái Vương (một nhà)). Tất nhiên giáo viên cần lưu ý giải thích từ “thua” thuộc quan điểm giai cấp nào? Hoặc khi dạy bài 29 (lịch sử 8) chương trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những chuyển biến về kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Tại phần I mục 2 chính sách kinh tế. Để mô phỏng cảnh nhân dân ta phải nộp sưu thuế. Giáo viên có thể sử dụng 4 câu ca dao sau: “Ôi nhớ những năm nào thuở trước Xóm làng ta xơ xác héo hon Nửa đêm thuế thúc trống dồn Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy.” Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian còn giúp học sinh biết được, hiểu được về chí khí con người, về địa danh của 1 nhân vật lịch sử nào đó. Ví như khi nói về Lí Công Uốn giáo viên có thể dùng 4 câu thơ sau: “Màn có trời cao, chiếu đất liền Đêm trăng Thanh thả giấc Thần tiên Suốt đêm nào dám vung chân duỗi Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.” Hoặc khi giảng về cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành, để giúp học sinh dễ dàng nhớ về địa danh nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa, quê hương ông. Giáo viên có thể dùng 2 câu ca dao sau: “Trên trời có ông sao Rua Giữa làng Minh Giám có vua Ba Vành.” Bên cạnh những tác dụng trên, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian sẽ giúp cho việc giáo dục tư tưởng, đạo đức nói chung và giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng có kết quả hơn. Chẳng hạn như: để giáo dục truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, giáo viên có thể sử dụng trong bài giảng những tác phẩm như: Hịch Tướng Sĩ; bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt;.... Hoặc để giáo dục lòng biết ơn các vua Hùng, giáo viên sử dụng 2 câu nói về Bác Hồ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước.” b) Các tác phẩm văn học ra đời vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử: Đối với các tác phẩm văn học này, nó có ý nghĩa rất lớn đối với khi khụi lại hình ảnh quá khứ. Nó làm quá khứ của sự kiện lịch sử trở lên sống động hơn, chân thật hơn. Sự kiện trở nên có sức sống hơn và thu hút học sinh hơn khi theo dõi bài giảng. Ví dụ như: khi dạy bài 24 (lịch sử 8) cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873. Tại mục II. Cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1858 đến năm 1873. Tuỳ vào diễn biến bài giảng giáo viên có thể lồng ghép bài thơ sau sao cho phù hợp tiến trình bài học. Cụ thể là: “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây Một bàn cờ thế phút ra tay Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy Mất ổ đàn chim dáo dát bay Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây Hỏi trăng dẹp loạn rày đâu vắng Nỡ để dân đen mắc nạn này!” (Theo thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – NXB Văn học, Hà Nội 1963) Hoặc để nói lên khí thế chống giặc của người dân Nam Bộ nói chung, 3 tỉnh miền Tây Nam Kì nói riêng, giáo viên có thể trích 1 đoạn trong văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu như: “Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn: Toan lo nghèo khó. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.... .... Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn găn; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cỏ”. .... Hoả mai đánh bằng rơm con cúc, cũng đốt x ong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.... Trong quá trình lịch sử từ đầu thế kỉ XX, khi nói về sự biến đổi của xã hội Việt Nam, cũng như thân phận của người nông dân trong xã hội thuộc Pháp. Giáo viên có thể sử dụng nhiều tác phẩm văn học có giá trị như: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan; “Lão Hạc” của Nam Cao.... để khắc sâu hình ảnh thân phận người nông dân trong lòng xã hội cũ. Hoặc như trong khoá trình lịch sử 9, khi dạy bài 19: Phong trào cách mạng trong những năm 1930 – 1935. Mục II: Phong trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh. Giảng về phong trào ở Nghệ Tĩnh giáo viên có thê đưa vào bài giảng đoạn trích sau trong “Bài ca cách mạng” cụ thể là: “.... Than ôi, nước mất nhà xiêu Thế không chịu nổi, liệu chiều tính mau. Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước Nọ Thanh Chương tiếp bước, bước lên Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên Anh Sơn, Hà Tĩnh 1 phen dậy rồi.... ..... Trên gió cả cờ đào phất thẳng Dưới đất bằng giấy trắng tung ra Chiến trường một trận xông pha Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng....” (Thơ văn cách mạng 1930 – 1945 NXB Văn học.H.1930) Hoặc như khi dạy bài 27 (lịch sử 9) cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953 - 1954) tại phần II mục 2 chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Giáo viên có thể sử dụng các tác phẩm văn học viết về Điện Biên Phủ trong thời kì này vào bài giảng. Ví dụ: Bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” (Tố Hữu). Giáo viên có thể trích dẫn 2 câu thơ sau để khắc sâu về hình ảnh chiến đấu dũng cảm của chiến sĩ Điện Biên đó là: “Khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn.” Như vậy, có thể nói rằng, các tác phẩm văn học xuất hiện cùng thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử đã giúp học sinh thấy được “bức tranh” sống động của lịch sử, làm cho các em nhận thức được sự kiện đó 1 cách toàn diện hơn. c) Tiểu thuyết lịch sử: Tiểu thuyết lịch sử có vai trò không nhỏ đối với việc dạy học lịch sử. Vì các tiểu thuyết này có chủ đề gần với những sự kiện trong khoá trình lịch sử, giúp học sinh khôi phục lại bối cảnh lịch sử, hình ảnh các sự kiện nhân vật của quá khứ. Ví như: Tiểu thuyết “Đêm hội long trì”; tác phẩm “Hoàng Lê Nhất Thống Chí”..... Tuy nhiên, khi dạy giáo viên cần lựa chọn, sáng lọc loại bỏ những tiểu thuyết bịa đặt, ảnh hưởng xấu đến nhận thức lịch sử của học sinh. 3. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử: Theo Trịnh Tùng trong cuốn Phương pháp dạy học lịch sử (trang 164. NXB Giáo Dục 1999). Để sử dụng tài liệu văn học trong giờ dạy lịch sử, có thể tiến hành theo cách sau: Thứ nhất: Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, đoạn văn ngắn nhằm minh hoạ những sự kiện đang học làm cho nội dung bài học được phong phú và giờ học thêm sinh động. Thứ hai: Dùng một đoạn trích để cụ thể hoá sự kiện, nêu ra 1 kết luận khái quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kì, một sự kiện lịch sử. Thứ ba: Tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi ngoại khoá (Dạ hội lịch sử). Tuỳ vào nội dung bài học, tiết dạy và năng lực của mỗi giáo viên mà chúng ta có thể sử dụng 1 trong những cách trên sao cho phù hợp. 4. Một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử: Sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử, giúp giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn lôi cuốn học sinh. Giúp học sinh có cái nhìn đa chiều đối với 1 sự kiện, 1 nhân vật, 1 hiện tượng lịch sử. Dễ dàng đưa kiến thức sử đến với học sinh. Tuy vậy, theo tôi việc sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử phải đảm bảo các yêu cầu sau: Thứ nhất: Tài liệu văn học đó phải đảm bảo cả giá trị giáo dưởng, giáo dục và giá trị văn học. Thứ hai: Tài liệu ấy phải là 1 bức tranh sinh động về những sự kiện, nhân vật lịch sử đang học phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Thứ ba: Đối với giáo viên: - Trước khi sử dụng, cần có sự lựa chọn kĩ càng, phải loại bỏ những yếu tố không phù hợp. Đặc biệt đối với tài liệu VHDG như thần thoại, cổ tích, ca dao, dân ca.... giáo viên cần loại bỏ những yếu tố thần bí hoang đường giữ lại những điểm cơ bản, khoa học phục vụ bài giảng. - Khi sử dụng giáo viên chỉ đưa vào những nội dung phù hợp, tránh việc lạm dụng đưa vào quá nhiều, làm loãng nội dung bài học lịch sử. Biến giờ học sử thành giờ giới thiệu các tác phẩm văn học, ảnh hưởng tới sự tập trung nhận thức của học sinh vào những vấn đề đang học. Đồng thời, giáo viên cần sử dụng ngữ điệu phù hợp với tài liệu văn học, với nội dung sự kiện lịch sử cần minh hoạ phải đưa vào bài giảng 1 cách hợp lí, lôgíc.... làm được điều đó thì tính thuyết phục, hấp dẫn sẽ tăng lên rất nhiều. Nói tóm lại, việc sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử là 1 trong những cách thức để giáo viên đưa tài liệu tham khảo vào trong giờ dạy sử. Thực hiện theo sơ đồ dạy học của Đairi, qua đó hoàn thành mục tiêu bài học, kế hoạch dạy học và nâng cao chất lượng bộ môn trong trường phổ thông. phần III. Kết quả thực hiện Sau thời gian nghiên cứu và thực hiện với đối tượng học sinh các khối lớp 6,7,8,9 tại trường THCS An Bình với cách thức sau: - Đối với các lớp 7A, 8A, 8C, 9B, thường tiến hành sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử. - Đối với các lớp 7B, 8B, 9A it thực hiện. Qua các loại bài kiểm tra, phiếu kiểm tra thu được kết quả so sánh như sau: Các mức độ Khối lớp thực hiện Khối lớp ít thực hiện Hứng thú học tập bộ môn Tăng Không tăng Khả năng ghi nhớ sự kiện, nhân vật - Nhanh. - Nhiều, hiểu rõ sự kiện. - Mức độ chậm. Khả năng làm bài phân tích sự kiện - Đa dạng, phân tích có chiều sâu. - Chủ yếu học thuộc lòng, ghi nhớ các sự kiện. Công tác giáo dục tư tưởng Học sinh có tình cảm, thái độ đúng đắn đối với sự kiện, nhân vật. - Học sinh có thái độ đúng đắn đối với sự kiện, nhân vật. Qua quá trình thực hiện, kết quả đáng mừng là số học sinh có hứng thú học tập bộ môn tăng, số chất lượng dạy học bộ môn tăng. Nhiều em đã tích cực tham gia ôn tập và dự thi HSG môn sử cấp trường, huyện đạt kết quả cao (Năm học 2007 – 2008 ; 1 học sinh đạt giải Nhì huyện; 2 em đạt giải ba; phần IV: Kết luận Thực hiện mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông. Đội ngũ giáo viên lịch sử không ngừng tăng cường áp dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giờ học lịch sử (Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ, dạy học nêu vấn đề, dạy học liên môn....) Việc sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử, vừa thực hiện phương pháp dạy học liên môn, vừa làm cho bài học trở nên sinh động, hấp dẫn. Qua các tác phẩm văn học phù hợp nội dung bài học, tiết học giúp học sinh nhận thức rõ bản chất của sự kiện lịch sử, hiểu thêm về các nhân vật lịch sử.... mà các em đang nhận thức. Quan trọng hơn, nó sẽ lấy lại hứng thú học tập bộ môn, lòng say mê học tập lịch sử của học sinh. Với suy nghĩ như vậy, tôi mạnh dạn trình bày quan điểm cùng kinh nghiệm của mình về vấn đề sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp. Tuy nhiên, do bản thân còn trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều nên có thể còn có những điểm chưa sâu, chưa toàn diện còn sơ sài. Rất mong sự đóng góp của các đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Nhận xét của HĐKH trường Người viết Hiệu trưởng Tài liệu tham khảo 1. Sách giáo viên lịch sử 6 - NXB Giáo dục. 2. Sách giáo viên lịch sử 7 - NXB Giáo dục. 3. Sách giáo viên lịch sử 8 - NXB Giáo dục. 4. Tuyển tập Thơ văn cách mạng 1930 – 1945 (NXB Văn học.H.1980). 5. Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị. Phương pháp dạy học lịch sử - NXB GD – 1999. 6. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng. Các triều đại Việt Nam – NXB Thanh Niên – 1995. 7. Quốc Chấn – Thần đồng xưa của nước ta – NXB Giáo Dục – 1998. Mục lục Nội dung Trang Phần I: Những vấn đề chung:............................................................ 1 1. Cơ sở lí luận....................................................................................... 1 2. Cơ sở thực tiễn................................................................................... 1 3. Những thuận lợi - khó khăn khi nghiên cứu....................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................... 3 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.......................................................... 3 Phần II: Nội dung............................................................................... 4 1. Tài liệu tham khảo trong DHLS......................................................... 4 2. Sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử.......................................... 5 3. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử..................... 10 4. Một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử........... 10 Phần III: Kết quả thực hiện................................................................ 12 Phần IV: Kết luận................................................................................ 13 Tài liệu tham khảo .............................................................................. 14
Tài liệu đính kèm: