Đề tài Sử dụng thí nghiệm hóa học biểu diễn trong dạy học hóa học tích cực và kinh nghiệm để thành công khi thực hiện một số thí nghiệm biểu diễn về tính chất hóa học của oxi, clo (Hóa học THCS)

Đề tài Sử dụng thí nghiệm hóa học biểu diễn trong dạy học hóa học tích cực và kinh nghiệm để thành công khi thực hiện một số thí nghiệm biểu diễn về tính chất hóa học của oxi, clo (Hóa học THCS)

 Thí nghiệm hóa học giúp học sinh làm quen với tính chất, mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật giữa các đối tượng nghiên cứu làm cơ sở để nắm vững các quy luật, các khái niệm khoa học và biết khai thác chúng.

 Thí nghiệm hóa học giúp học sinh sáng tỏ mối liên hệ phát sinh giữa các sự vật, giải thích đ¬ược bản chất của các quá trình xảy ra trong tự nhiên, trong sản xuất và đời sống.

 

doc 14 trang Người đăng HoangHaoMinh Lượt xem 1983Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Sử dụng thí nghiệm hóa học biểu diễn trong dạy học hóa học tích cực và kinh nghiệm để thành công khi thực hiện một số thí nghiệm biểu diễn về tính chất hóa học của oxi, clo (Hóa học THCS)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 3
III. KẾT LUẬN: 11
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lí do chọn đề tài: 
* Cơ sở lí luận: 
 Thí nghiệm hóa học giúp học sinh làm quen với tính chất, mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật giữa các đối tượng nghiên cứu làm cơ sở để nắm vững các quy luật, các khái niệm khoa học và biết khai thác chúng.
 Thí nghiệm hóa học giúp học sinh sáng tỏ mối liên hệ phát sinh giữa các sự vật, giải thích được bản chất của các quá trình xảy ra trong tự nhiên, trong sản xuất và đời sống.
 Nhờ thí nghiệm mà con người có thể thiết lập được những quá trình mà trong thực tế tự nhiên hoàn toàn không có được và kết quả đã tạo ra chất mới. Nó còn giúp học sinh có khả năng vận dụng những quá trình nghiên cứu trong nhà trường, trong phòng thí nghiệm vào phạm vi rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt động của con người.
 Đối với bộ môn hóa học, thí nghiệm giữ vai trò đặc biệt quan trọng như trong nhận thức, phát triển tư duy, giáo dục như một bộ phận không thể tách rời của quá trình dạy học. Người ta coi thí nghiệm là cơ sở của việc học hóa học và để rèn luyện kĩ năng thực hành. Thông qua thí nghiệm hóa học, học sinh nắm kiến thức một cách hứng thú, vững chắc và sâu hơn. 
 Thí nghiệm hóa học còn có tác dụng phát triển tư duy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng và củng cố niềm tin khoa học cho học sinh, giúp hình thành những đức tính tốt: Thận trọng, ngăn nắp, trật tự gọn gàng.... Đặc biệt với việc thay đổi nội dung chương trình sách giáo khoa và phương pháp dạy học mới theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh như hiện nay thì thí nghiệm càng được coi trọng, nhất là thí nghiệm được tiến hành thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu (Học sinh nghiên cứu thí nghiệm do giáo viên biểu diễn hoặc nhóm học sinh nghiên cứu thí nghiệm để rút ra kiến thức cần lĩnh hội).
 Vì vậy để làm tốt điều này thì người giáo viên cần có kinh nghiệm và biết sử dụng thí nghiệm sao cho phù hợp với nội dung kiến thức và mục tiêu của bài học nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Bên cạnh đó, khi giáo viên tiến hành thí nghiệm biểu diễn thì phải đảm bảo thí nghiệm đó thành công ở mức cao nhất.
2. Cơ sở thực tiễn. 
 Đối với học sinh trường THCS Cốc Pài các em phần lớn chưa được tiếp xúc, làm các thí nghiệm về phản ứng của các chất hóa học.
 Khi các em học tập môn hóa học thường gặp khó khăn khi nêu hiện tượng của phản ứng hóa học. Vì vậy thí nghiệm hóa học rất quan trọng đối với các em. 
 Trong thí nghiêm hóa học được chia ra làm hai loại như sau: Đó là thí nghiệm của giáo viên và thí nghiệm của học sinh.
 Thí nghiệm biểu diễn làm cơ sở để cụ thể hóa những khái niệm về chất và các phản ứng hóa học. Nếu trong thí nghiệm biểu diễn giáo viên là người thực hiện các thao tác, điều khiển các quá trình biến đổi của chất, học sinh chỉ theo dõi, quan sát những quá trình đó. Còn thí nghiệm của học sinh: các em theo dõi quan sát những thay đổi và các quá trình đó do chính bản thân mình thực hiện lấy. Đó là sự khác nhau giữa hai loại thí nghiệm. 
 Trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm tôi chỉ đề cập đến thí nghiệm của giáo viên nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh. 
 Xuất phát từ mục tiêu và vai trò quan trọng của thí nghiệm như đã nêu, đồng thời mong muốn ngày càng nâng cao chất lượng, sự thành công trong thí nghiệm qua những năm giảng dạy môn hóa tôi lựa chọn nghiên cứu viết sáng kiến kinh nghiệm “Sử dụng thí nghiệm hóa học biểu diễn trong dạy học hóa học tích cực và kinh nghiệm để thành công khi thực hiện một số thí nghiệm biểu diễn về tính chất hóa học của oxi, clo (Hóa học THCS)”. 
2. Phạm vi nghiên cứu: 
 Trong quá trình đổi mới về nội dung phương pháp đối với môn hoá học có rất nhiều vấn đề cần đề cập đến. Song do thời gian hạn chế nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi rất nhỏ đó là thí nghiệm biểu diễn của giáo viên.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
A/ Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên.
1. Những yêu cầu chung khi tiến hành thí nghiệm biểu diễn.
 Trước khi làm thí nghiệm biểu diễn giáo viên cần nắm được những vấn đề quan trọng sau đây:
 a. Đảm bảo an toàn thí nghiệm: 
 An toàn thí nghiệm là yêu cầu trước hết đối với mọi thí nghiệm. Để đảm bảo an toàn giáo viên phải xác định ý thức trách nhiệm cao về sức khoẻ, tính mạng của học sinh. Mặt khác giáo viên cần nắm chắc kĩ thuật và phương pháp tiến hành thí nghiệm.
 VD: Khi đốt cháy khí mê tan, hiđrô phải thử độ tinh khiết của chúng.
 Khi làm việc với các khí độc hại như Clo, brôm, lưu huỳnh điôxit phải có biện pháp bảo hiểm.
 Không dùng quá liều lượng hoá chất dễ cháy, dễ nổ đã ghi trong tài liệu hướng dẫn. 
 Các thí nghiệm tạo thành chất độc bay hơi cần tiến hành trong tủ hoặc ở cuối chiều gió. 
b. Đảm bảo kết quả thí nghiệm: 
 Thực hiện thí nghiệm thành công có tác động trực tiếp đến chất lượng dạy học và củng cố niềm tin của học sinh vào khoa học. Muốn đảm bảo kết quả thí nghiệm trước hết giáo viên phải nắm vững kĩ thuật tiến hành thí nghiệm, phải thử nhiều lần trước khi biểu diễn trên lớp. Các dụng cụ thí nghiệm phải được chuẩn bị chu đáo, đồng bộ. Nếu chẳng may thí nghiệm không thành công, giáo viên cần bình tĩnh kiểm tra lại các buớc tiến hành, tìm nguyên nhân và giải thích cho học sinh.
c. Đảm bảo tính trực quan. 
 Trực quan là một yêu cầu cơ bản của thí nghiệm biểu diễn. Để đảm bảo tính trực quan, khi chuẩn bị giáo viên cần lựa chọn các dụng cụ và sử dụng lượng hoá chất thích hợp. Các dụng cụ cần có kích thước đủ lớn để học sinh ngồi cuối lớp có thể quan sát được, có màu sắc hài hoà, bàn biểu diễn thí nghiệm phải có độ cao cần thiết, các dụng cụ thí nghiệm cần bố trí sao cho học sinh có thể nhìn rõ.
 Đối với thí nghiệm có sự thay đổi màu sắc, có các khí sinh ra như: Clo ... Hoặc chất kết tủa tạo thành thì dùng phông đặt ở phía sau các dụng cụ thí nghiệm. 
 Ngoài những yêu cầu trên, về mặt phương pháp để nâng cao chất lượng các thí nghiệm biểu diễn giáo viên cần chú ‏ý thêm đến nội dung sau đây: 
 - Số thí nghiệm trong một bài nên lựa chọn vừa phải.
 - Cần lựa chọn những thí nghiệm phục vụ trọng tâm bài học và phù hợp với thời gian trên lớp.
 - Trong thí nghiệm nên sử dụng các hoá chất học sinh đã quen biết. Đương nhiên thí nghiệm nghiên cứu bài mới thì chất đó phải là mới đối với học sinh. 
Nhưng khi sử dụng hoá chất để rút ra những kết luận nào đó thì nên dùng các chất quen thuộc.
 - Chọn các dụng cụ đơn giản, đảm bảo tính khoa học,sư phạm, mỹ thuật.
 - Chọn các phương án thí nghiệm đơn giản, tiết kiệm hoá chất, dễ thành công và đặc biệt đảm bảo tính an toàn cho học sinh. 
 Để giúp học sinh tập chung cao vào các phản ứng hoá học diễn tả trong các dụng cụ thí nghiệm nếu có điều kiện trước khi tiến hành thí nghiệm giáo viên nên giúp học sinh tìm hiểu về cấu tạo, tác dụng và cách sử dụng dụng cụ đó. 
 - Trong quá trình tìm hiểu thí nghiệm cần có biện pháp tích cực nhằm thu hút sự chú ý của học sinh vào việc quan sát, giải thích các hiện tượng xảy ra bằng cách đặt các câu hỏi ở các giai đoạn khác nhau của thí nghiệm để học sinh chú ý quan sát, nhận xét và trả lời. Cần hướng dẫn sự chú ý của học sinh vào sự quan sát những hiện tượng cơ bản nhất của thí nghiệm có liên quan đến nội dung bài học. 
2. Sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong dạy học hoá học tích cực.
 Sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong giảng dạy là một yêu cầu hết sức quan trọng vì môn hoá học là bộ môn khoa học thực nghiệm, không có thí nghiệm sẽ ảnh hưởng rõ rệt đến việc nắm bắt kiến thức của học sinh. 
 Vai trò của thí nghiệm trong giờ học hoá có thể khác nhau. Chúng có thể: Minh hoạ những kiến thức do giáo viên trình bày, có thể là nguồn kiến thức mà học sinh tiếp thu dưới sự hướng dẫn của giáo viên trong quá trình quan sát thí nghiệm. Vì vậy, các thí nghiệm biểu diễn có thể tiến hành thực hiện bằng hai phương pháp chính: 
 - Phương pháp minh hoạ.
 - Phương pháp nghiên cứu.
 Tuỳ theo nội dung kiến thức và mục tiêu của bài học mà các thí nghiệm biểu diễn được giáo viên tiến hành thực hiện theo phương pháp minh hoạ hay phương pháp nghiên cứu hoặc có thể tiến hành biểu diễn theo cả hai phương pháp.
 Tuy nhiên trong hai phương pháp trên thì phương pháp nghiên cứu có giá trị lớn hơn, vì nó tạo điều kiện phát triển khả năng nhận thức của học sinh như: 
 - Học sinh nắm được mục đích của thí nghiệm.
 - Quan sát mô tả hiện tượng.
 - Giải thích hiện tượng.
 - Rút ra kết luận về tính chất của chất.
 Đặc biệt là có tác dụng kích thích học sinh làm việc tích cực hơn, chủ động hơn. Phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học, nội dung chương trình và sách giáo khoa như hiện nay.
 Một số ví dụ:
 VD: Thí nghiệm về Cl2 tác dụng với kim loại Na ( Hoặc Cu, Fe ) 
 Với thí nghiệm này, giáo viên có thể tiến hành thực hiện theo phương pháp minh hoạ hay phương pháp nghiên cứu.
 - Phương pháp minh họa: 
 Giáo viên thông báo cho học sinh biết:
 Na nóng chảy trong khí Cl2 với ngọn lửa sáng chói tạo thành NaCl. Tiếp theo, giáo viên yêu cầu học sinh viết phương trình phản ứng, cân bằng , cuối cùng giáo viên tiến hành thí nghiệm biểu diễn theo phương pháp minh họa cho điều giáo viên vừa thông báo. 
 Sau khi hoàn thành thí nghiệm, học sinh sẽ thấy những điều giaó viên mô tả được khẳng định về mặt thực nghiệm. Hay nói cách khác, giáo viên đã minh họa cho các kiến thức đã đưa ra bằng thí nghiệm (Thí nghiệm minh họa).
 - Phương pháp nghiên cứu:
 Giáo viên đặt vấn đề: 
 Cl2 có tác dụng được với kim loại như Na ( Cu, Fe ) hay không?
 Trước khi tiến hành thí nghiệm biểu diễn, giáo viên yêu cầu học sinh tập chung quan sát hiện tượng xảy ra, sau đó giáo viên biểu diễn thí nghiệm theo phương pháp nghiên cứu.
 Kết thúc thí nghiệm giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi sau: 
 - Nêu mục đích của thí nghiệm 
 - Hiện tượng quan sát được 
 - Viết phương trình phản ứng, giải thích? 
 - Rút ra kết luận về tính chất hóa học của Cl2 khi tác dụng với kim loại Na (Hoặc Cu, Fe).
 Qua đó thấy rằng, với cùng một nội dung thí nghiệm mà giáo viên có thể tiến hành biểu diễn thí nghiệm theo hai phương pháp khác nhau. Nhưng rõ ràng với phương pháp nghiên cứu học sinh tham gia vào hoạt động học tập nhiều hơn (trả lời nhiều câu hỏi và trên cơ sở đó rút ra được kiến thức cần lĩnh hội) chủ động hơn và đặc biệt phát huy được tính tích cực của học sinh. Mặt khác, yếu tố bất ngờ để gây lên sự hứng thú trong học tập là rất tốt, vì học sinh phải tự mình nghiên cứu thí nghiệm do giáo viên biểu diễn trên cơ sở hoạt động học tập như: Quan sát, trả lời câu hỏi, từ đó rút ra kiến thức cần lĩnh hội như: khí clo tác dụng với kim loại tạo thành muối clorua. 
 Còn đối với thí nghiệm biểu diễn tiến hành thực nghiệm bằng phương pháp minh họa thì học sinh ít được tham gia vào hoạt động học tập và các hoạt động học tập mang tính thụ động ít phát huy được tính tích cực của học sinh, không tạo được yếu tố bất ngờ và sự hứng thú cho học sinh mà trong học tập tính tích cực là yếu tố rất cần thiết. Vì trước khi được quan sát thí nghiệm do giáo viên làm học sinh đã được thông báo hiện tượng xảy ra cũng như sản phẩm tạo thành sau phản ứng. Vì vậy thí nghiệm ở đây chỉ mang tính chất minh họa cho những gì đã thông báo.
 Ở thí nghiệm Cl2 tác dụng với kim loại như đã nêu trên, giáo viên có thể biểu diễn thí nghiệm theo phương pháp minh họa mặc dù phương pháp này còn nhiều hạn chế so với phương pháp nghiên cứu. Tuy nhiên để phát huy tính tích cực của học sinh thì trong thực tế giảng dạy giáo viên cần sử dụng phương pháp nghiên cứu. 
 Có những thí nghiệm giáo viên phải biết lựa chọn, sử dụng phương pháp tiến hành thí nghiệm phù hợp mới đảm bảo đúng được mục tiêu kiến thức về mặt khoa học thực nghiệm, khoa học bộ môn.
 Như khi nghiên cứu độ tan của khí clo trong nước, ta tiến hành thực hiện thí nghiệm biểu diễn bằng cả hai phương pháp minh họa và phương pháp nghiên cứu. Thông qua cả hai phương pháp này, ta so sánh để thấy rằng phải sử dụng phương pháp nghiên cứu mới đảm bảo được mục tiêu như đã nêu trên. Qua ví dụ trên rõ ràng là để phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học, nội dung chương trình sách giáo khoa như hiện nay thì sử dụng phương pháp nghiên cứu trong thí nghiệm biểu diễn sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động và đạt hiệu quả cao hơn trong học tập của học sinh. Mặt khác, kiến thức lĩnh hội theo phương pháp này bền vững sâu sắc hơn so với phương pháp minh họa.
 Với phương pháp minh họa giáo viên thường chỉ dùng khi dạy thí nghiệm về điều chế hay nhận biết các chất.
B/ Kinh nghiệm để thành công khi thực hiện một số thí nghiệm biểu diễn về clo, oxi.
 Trong hóa học, để thực hiện thành công thí nghiệm nói chung và thí nghiệm biểu diễn nói riêng thì ngoài việc nắm vững nguyên tắc và phương pháp tiến hành thí nghiệm đòi hỏi giáo viên phải có kinh nghiệm thực tế trong khi làm thí nghiệm, đặc biệt là thí nghiệm khó thành công. 
 Dưới đây, tôi xin nêu lên kinh nghiệm để thành công khi tiến hành thực hiện thí nghiệm biểu diễn về Cl2, O2, S trong chương trình hóa học THCS: 
1. Thí nghiệm về S tác dụng với Fe. 
 - Hiện tượng: 
 Những hiện tượng thường xảy ra là: S chảy ra, Fe không cháy, đốt 2-3 phút hoặc lâu hơn kết quả vẫn như vậy. 
 - Nguyên nhân: 
 + Bột Fe không mịn.
 + Tỉ lệ về khối lượng hoặc tỉ lệ về thể tích chưa đúng.
 - Kinh nghiệm để thí nghiệm thành công: 
 + Bột Fe phải mịn, nhuyễn, tỉ lệ về khối lượng là 7g Fe và 4gS (Hoặc có thể ước lượng bằng mắt 3 thể tích Fe với 1 thể tích S).
 Thí nghiệm này thường làm sau khi trộn lẫn giữa Fe và S mà ưu thế hơn là bột Fe không mịn. Do đó nếu đốt hỗn hợp bột Fe không mịn S nóng chảy trong toàn bộ hỗn hợp và Fe không còn để phản ứng.
 + Vì phản ứng tỏa nhiệt nên chỉ cần đốt chưa tới một phút một đốm đỏ ở đáy ống xuất hiện (lưu ý khi đó phần giữa hỗn hợp đen đi do lưu huỳnh nóng chảy nhưng nửa bên trong vẫn còn nguyên màu vàng và xám của hỗn hợp) lập tức rút đèn cồn ra vệt sáng đỏ tự cháy tan dần khắp hỗn hợp.
 Kết quả thí nghiệm thành công. Hiện tượng phản ứng xảy ra rất đẹp và hấp dẫn.
2. Thí nghiệm về O2 tác dụng với Fe.
 - Hiện tượng: Thường gặp là: que diêm hay mẩu than mồi bị rơi xuống bình O2, Fe không cháy nữa. Bình thủy tinh bị vỡ khi làm thí nghiệm. 
 - Nguyên nhân: 
 + Do buộc không chặt que diêm hay mẩu than hoặc để than cháy quá lâu nên thể tích than nhỏ lại và rơi xuống khi Fe chưa kịp cháy.
 + Hoặc do miệng bình O2 nhỏ, dây Fe và que diêm mồi quá dài vì thế dây Fe bị rung, thao tác chậm làm mất nhiệt hoặc que diêm quá dài cháy lâu làm mất một lượng lớn O2 nên không đủ O2 cho Fe phản ứng. 
 + Không cho nước hoặc một ít cát vào bình O2. 
 + Dây Fe bị gỉ hoặc quá bẩn. 
 + Dây Fe quá to.
 + Mồi than chưa nung nóng đỏ (Nếu mồi là than).
Kinh nghiệm để thí nghiệm thành công: 
 + Cho ít nước vào trong bình oxi.
 + Dùng giấy nhám chà sạch gỉ hoặc bẩn trên dây Fe (dây Fe không nên to quá, tốt nhất là 1 dây phanh xe đạp) độ dài 30 cm cuận thành lò xo và ở đầu buộc chặt 1/3 que diêm.
 + Đốt cho que diêm cháy (Hoặc nung nóng đỏ mẩu than) và đưa nhanh vào bình oxi. Que diêm cháy mạnh và làm cho dây Fe nóng lên và cháy đến khi hết oxi, ở đầu dây Fe, Fe nóng chảy viên thành giọt tròn. 
3. Thí nghiệm Cl2 tác dụng với Fe. 
 - Hiện tượng: Thường gặp là: Dây Fe không cháy hoặc cháy quá nhanh.
 - Nguyên nhân: 
 + Do nung dây Fe chưa đủ nóng hoặc thao tác đưa dây Fe vào bình Cl2 chậm làm mất nhiệt.
 + Dây Fe chưa làm sạch gỉ hay bẩn hoặc dây Fe nhỏ quá cháy nhanh nên học sinh không kịp quan sát hiện tượng xảy ra. 
 + Không đủ Cl2 để phản ứng với Fe do thu khí Cl2 vào bình quá nhỏ hoặc thu khí Cl2 vào bình nhưng chưa đủ.
 - Kinh nghiệm để thành công: 
 + Dùng dây Fe to bằng một sợi dây phanh xe đạp hoặc to hơn một chút (tốt nhất dùng luôn một sợi phanh xe đạp) cọ sạch, dài 30 cm một đầu cuốn chặt vào đũa thủy tinh xuyên qua nút cao su, một đầu cuộn hình lò xo.
 + Thu đầy khí Cl2 vào bình cầu đáy bằng hoặc bình tam giác 250 ml. 
 + Đốt nóng đỏ đầu dây đã cuộn hình lò xo rồi đưa nhanh vào bình đựng khí Cl2.
C/ Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: 
Trong quá trình giảng dạy hóa học THCS tôi đã tiến hành thực nghiệm đối với hai lớp là lớp 9a, 9b thấy rõ ưu điểm của phương pháp nghiên cứu thí nghiệm do giáo viên biểu diễn so với thí nghiệm mang tính chất minh họa. 
Kết quả cho thấy: ở lớp 9a trong các thí nghiệm trên giáo viên sử dụng phương pháp nghiên cứu thì học sinh hoạt động nhiều hơn, chủ động lĩnh hội kiến thức và hứng thú hơn trong quá trình học tập. Sau khi kết thúc bài học số học sinh nắm được các hiện tượng hóa học xảy ra và nêu đúng hiện tượng hóa học chiếm 90 %.
 Trong khi đó ở lớp 9b giáo viên sử dụng phương pháp minh họa thì học sinh thụ động nắm bắt kiến thức và không phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh. Sau khi kết thúc bài học số học sinh nắm được các hiện tượng hóa học xảy ra trong các phản ứng trên giảm hẳn hoặc nêu các hiện tượng không chính xác so với thí nghiệm.
III. KẾT LUẬN:
 Thí nghiệm hóa học giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình nhận thức phát triển giáo dục. Sử dụng thí nghiệm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn hóa học. Đặc biệt là khi sử dụng thí nghiệm biểu diễn bằng phương pháp nghiên cứu vì phương pháp này phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần chú trọng sử dụng phương pháp này trong quá trình dạy bộ môn. Nếu trong một thí nghiệm biểu diễn có thể sử dụng cả hai phương pháp minh họa và phương pháp nghiên cứu thì giáo viên phải sử dụng phương pháp nghiên cứu. Tuy nhiên, tùy thuộc vào mục tiêu của bài học mà giáo viên có thể lựa chọn phương pháp minh họa hay phương pháp nghiên cứu cho phù hợp. Mặt khác, giáo viên cần vận dụng linh hoạt việc đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại và nhất là đảm bảo thí nghiệm thành công ở mức cao nhất, tạo được niềm tin khoa học cho học sinh. Điều này chỉ có được khi giáo viên tìm tòi nghiên cứu làm nhiều thí nghiệm để rút ra được những bài học kinh nghiệm cho bản thân.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm trên đã được kiểm nghiệm qua thực tế giảng dạy tại 
Trường THCS Cốc Pài cho thấy phù hợp với việc đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay.
 Mặc dù đã cố gắng, song có thể còn những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của cấp trên và đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
 Xin trân trọng cảm ơn! Cốc Pài: Ngày 10/11/2010 
 Xác nhận của nhà trường Người viết 
 Lê Thị Mai 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Lý luận dạy học hoá học.
2/ Bài giảng hoá học trong nhà trường phổ thông.
3/ Hình thành kỹ năng giải bài tập hoá học.
PHIẾU NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ
...............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

Tài liệu đính kèm:

  • docSANG KIEN KINH NGHIEM MON HOA.doc