Giáo án môn học Ngữ văn 7 - Bài 12 - Tiết 1: Cảnh khuya rằm tháng giêng

Giáo án môn học Ngữ văn 7 - Bài 12 - Tiết 1: Cảnh khuya rằm tháng giêng

MỤC ĐÍCH , YÊU CẦU: giúp HS

- Cảm nhận và phân tích được tình yêu thiên nhiên gắn liền với lòng yêu nước, phong thái ung dung của chủ tịch HCM – nhà nghệ sĩ, chiến sĩ biểu hiện trong 2 bài thơ người viết hồi đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở chiến khu Việt Bắc

- Biết được thể thơ và chỉ ra được những nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ. Luyện kĩ năng đọc, phân tích thơ Đường luật thất ngôn tứ tuyệt, đối chiếu bản dịch và bản phiên âm chữ Hán, so sánh, đối chiếu với các bài thơ Đường đã học

DẠY VÀ HỌC:

Bài cũ: giới thiệu Đỗ Phủ và ghi nhớ về “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” Kể lại bằng văn xuôi nội dung bài “bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ.

Bài mới:

Trong các tiết học trước, các em đã được học nhiều bài thơ trong văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc. Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu về thơ hiện đại Việt Nam, trong đó hai bài thơ Cảnh Khuya và Nguyên Tiêu của Hồ Chí Minh là tiêu biểu. Tuy là thơ hiện đại nhưng Cảnh Khuya và Nguyên Tiêu lại rất đậm màu sắc cổ điển, từ thể thơ đến hình ảnh, tứ thơ và ngôn ngữ. Các em có thể vận dụng những hiểu biết về thơ cổ đã được trang bị để tìm hiểu hai bài thơ này.

 

doc 3 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 1134Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn học Ngữ văn 7 - Bài 12 - Tiết 1: Cảnh khuya rằm tháng giêng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÁO ÁN NGỮ VĂN 7 - TUẦN 12 - BÀI 12 -TIẾT 1:
 CẢNH KHUYA 
RẰM THÁNG GIÊNG (1 tiết)
MỤC ĐÍCH , YÊU CẦU: giúp HS 
Cảm nhận và phân tích được tình yêu thiên nhiên gắn liền với lòng yêu nước, phong thái ung dung của chủ tịch HCM – nhà nghệ sĩ, chiến sĩ biểu hiện trong 2 bài thơ người viết hồi đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở chiến khu Việt Bắc
Biết được thể thơ và chỉ ra được những nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ. Luyện kĩ năng đọc, phân tích thơ Đường luật thất ngôn tứ tuyệt, đối chiếu bản dịch và bản phiên âm chữ Hán, so sánh, đối chiếu với các bài thơ Đường đã học
DẠY VÀ HỌC:
Bài cũ: giới thiệu Đỗ Phủ và ghi nhớ về “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” Kể lại bằng văn xuôi nội dung bài “bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ.
Bài mới: 
Trong các tiết học trước, các em đã được học nhiều bài thơ trong văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc. Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu về thơ hiện đại Việt Nam, trong đó hai bài thơ Cảnh Khuya và Nguyên Tiêu của Hồ Chí Minh là tiêu biểu. Tuy là thơ hiện đại nhưng Cảnh Khuya và Nguyên Tiêu lại rất đậm màu sắc cổ điển, từ thể thơ đến hình ảnh, tứ thơ và ngôn ngữ. Các em có thể vận dụng những hiểu biết về thơ cổ đã được trang bị để tìm hiểu hai bài thơ này.
BH rất yêu trăng. Ngay từ hồi còn ngồi trong ngục tối, trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch (1942, 43). Người đã bao lần làm thơ vọng nguyệt, dõi theo mảnh trăng thu vời vợi Ở Việt Bắc, người rất bận, nhưng cũng đôi dịp tình cờ, người trò chuyện với trăng hoặc lặng ngắm vầng trăng qua cửa sổ, hay ánh trăng lai láng trên dòng sông bát ngát. Hai bài chúng ta học trong tiết này được người viết hồi đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở chiến khu Việt Bắc
CÂU HỎI VÀ DIỄN GIẢNG
HĐ1: đọc, chú thích, tìm hiểu thể loại hai bài thơ: Cả hai bài được viết theo thể loại gì? Sự khác biệt ở hai bài? Tìm một số vd tương tự những bài đã học, đã đọc?
Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Cảnh khuya viết bằng chữ Việt. Rằm tháng giêng viết bằng chữ Hán. Hai bài thơ trên viết cách nhau khoảng hơn một năm (1947-1948) , nhưng cùng được khơi nguồn cảm hứng từ cảnh đêm trăng nơi chiến khu Việt Bắc, cùng thể hiện tâm hồn nghệ sĩ, chiến sĩ của BH. Mỗi bài lại có vẻ hay riêng.
 Thơ tứ tuyệt (còn gọi là tuyệt cú) là một thể thơ cổ có từ lâu đời ở Trung Quốc và việt nam . theo nghĩa rộng đây là loại thơ 4 câu, mỗi câu 5 tiếng hoặc 7 tiếng (gọi là ngũ ngôn tuyệt thi và thất ngôn tuyệt cú). giữa các câu có thể đối nhau (từng cặp một và hai, ba , hoặc bốn hoặc chỉ một trong hai cặp trên) cũng có thể không cần đối nhau. Thơ của HCM, nhất là thơ chữ Hán , thường là thơ tứ tuyệt. 
Bài cảnh khuya: được làm theo thể tứ tuyệt có 4 câu, mỗi câu 7 tiếng 3 vần (ở cuối các câu 1,2,4) giống với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Về cấu trúc nội dung bài thơ cũng theo trình tự; khai , thừa, chuyển, hợp với hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau thể hiện tâm trạng. Nhịp: chỗ khác biệt rõ nhất về hình thức của bài thơ so với mô hình chung nhất là cách ngắt nhịp ở câu một và câu bốn . Hai câu này không ngắt nhịp 4/3 như thông thường mà là ¾ và 2/5. Những câu ngắt nhịp khác bình thường như thế sẽ tạo ra sự thay đổi về mặt nhịp điệu để thể hiện về nội dung và cảm xúc. à Bài Rằm tháng giêng (Nguyên tiêu): theo rất sát mô hình cấu trúc của bài thơ tứ tuyệt, kể cả cách ngắt nhịp các dòng thơ. Bản dịch rằm tháng giêng theo sát ý từng câu, nhưng chuyển thành thơ lục bát và có thêm những tính từ miêu tả như lồng lộng (câu 1) và bát ngát cùng với động từ ngân (câu 4) khá hay. Câu thứ ba thiếu hai từ ‘yên ba’ (khói sóng), bỏ mất cái mịt mù, hư thực của cảnh khuya.
GHI BẢNG
THVB:
CẢNH KHUYA:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa, 
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ.. . vì lo nỗi nước nhà”
à Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt vừa ảnh hưởng Đường thi, cổ điển vừa sáng tạo, hiện đại.
à Cảnh trăng đẹp ở chiến khu Việt Bắc thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu đậm của Bác.
HĐ 2: Tìm hiểu vẻ đẹp và tâm trạng của tác giả trong cảnh trăng rừng khuya.
- Hai bài thơ đều miêu tả cảnh trăng ở chiến khu Việt bắc. Em hãy nhận xét cảnh trăng trong mỗi bài có nét đẹp riêng như thế nào ? (h/s thảo luận).
Cảnh trăng trong bài cảnh khuya mang vẻ đẹp của sự hòa hợp gắn bó giữa ánh trăng, bóng cây và bóng hoa. Cảnh trăng trong bài rằm tháng giêng mang vẻ đẹp phóng khóang, ánh trăng mênh mông bao phủ cả cảnh sông nước.
Phân tích “hai câu khai, thừa’ của bài cảnh khuya . (Chú ý âm thanh và cách so sánh trong câu thứ nhất, vẻ đẹp hình ảnh trong câu thơ thứ hai)
Câu thơ “ Tiếng suối trong như tiếng hát xa” có cách so sánh đặc sắc. Người thướng ví tiếng đàn với tiếng suối hoặc tiếng suối với tiếng đàn (Côn Sơn suối chảy rì rầm, ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai – Nguyễn trãi: Côn Sơn ca. Tiếng hát trong như nước ngọc tuyền – Thế Lữ: tiếng hát bên sông ) . Nay HCM ví tiếng hát như tiếng suối. Cách so sánh ấy làm cho tiếng suối gần gũi với con người hơn và có sức sống trẻ trung.
Tìm hiểu vẻ đẹp của cảnh trăng rừng ở câu thứ hai: “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”?
Hình ảnh trong câu thơ này có vẻ đẹp của bức tranh nhiều tầng lớp, đường nét, hình khối đa dạng. Có dáng hình vươn cao tỏa rộng của vòm cổ thụ, ở trên cao lấp lánh ánh trăng, có bóng lá, bóng cây in vào khóm hoa, in lên mặt đất thành hình như bông hoa thêu dệt. Bức tranh chỉ có hai màu sáng tối , trắng đen ma øngười đọc có thể hình dung đủ trăm nghìn màu sắc. Đọc câu thơ này, ta nhớ đến đoạn thơ nổi tiếng trong bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm: Trăng đãi nguyệt, nguyệt in một tấm, / Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông / Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng / Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.
Hai câu thơ cuối ‘chuyển, hợp’ của bài cảnh khuya đã biểu hiện những tâm trang gì của tác giả. Trong hai câu thơ ấy có hai từ nào được lặp lại và việc sử dụng điệp ngữ ở đây có tác dung như thế nào đối với sự thể hiện tâm trạng của bài thơ ?
Tâm trạng của tác giả thể hiện trong hai câu thơ cuối : hai chữ “Chưa ngủõ” ở cuối câu thơ thứ hai được lặp lại và việc sử dụng điệp ở đầu câu thứ tư cho thấy hai nét tâm trạng được mở ra trước và sau hai chữ ấy đồng thời bộc lộ chiều sâu nội tâm của tác giả.
Câu 3; thể hiện trong tâm hồn Hồ Chí Minh. Đó là sự rung động, niềm say mê trước vẻ đẹp như tranh của rừng Việt Bắc. Câu 4: bất ngờ mở ra vẻ đẹp và chiều sâu mới trong tâm hồn nhà thơ: thao thức chưa ngủ vì còn chính là vì lo nghĩ đến vận mệnh của đất nước . hay là vì thức cho tới khuya lo việc nước mà người đã bắt gặp được cảnh trăng đẹp.
Điệp từ “chưa ngủ” ở cuối câu 3 và đầu câu 4 là một bản lề mở ra hai phía của tâm trạng trong cùng một con người ; niềm say mê cảnh thiên nhiên và nỗi lo việc nước . hai nét tâm trạng ấy thống nhất trong con người của Bác, thể hiện sự hòa hợp, thống nhất giữa nhà thơ sĩ và người chiến sĩ trong vị lãnh tụ. Nhà thơ Tố HưÕu từng nhớ lại: 
Nơi Bác ở sàn mây vách gió / Sáng nghe chim rừng gáy bên nhà / Đêm trăng một ngọn đèn khêu nhỏ / Tiếng suối trong như tiếng hát xa.
HĐ 3: Rằm tháng giêng (Nguyên Tiêu)
HS đọc 2 câu đầu: ‘Khai thừa’: dịch nghĩa và dịch thơ? Hai câu thơ gợi cho em hình dung cảnh đẹp gì?
-> “ Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên (Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn -> Rằm xuân lồng lộng trăng soi) Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên (Dòng sông xuân, nước xuân tiếp liền với bầu trời xuân -> Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
-> Hai câu thơ đầu mở ra một không gian cao rộng, mênh mông, tràn đầy ánh sáng trong đêm nguyên tiêu. Bầu trời và vầng trăng không có giới hạn, dòng sông, mặt nước tiếp lẫn, liền với trời. Đây là dòng nước sông mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, cũng là dòng sông của tuổi trẻ, sức hăng khỏe của tuổi xuân cũng như tháng đầu của mùa đầu trong năm, mùa xuân đang tràn ngập cả đất trời. Cách miêu tả vẫn theo truyền thống của bút pháp Phương Đông: chỉ chú ý đến tòan cảnh, đến quan hệ giữa các yếu tố của sự vật, cái thần của sự vật chứ ít khi tả thật cụ thể, chi li các màu sắc, đường nét.
NGUYÊN TIÊU:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
(Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn -> Rằm xuân lồng lộng trăng soi)
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.
(Dòng sông xuân, nước xuân tiếp liền với bầu trời xuân -> Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
“Yên ba thâmxứ đàm quân sự
 ( Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân sự -> giữa dòng bàn bạc việc quân).
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” 
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền -> Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
-> Bút pháp Phương Đông: chú ý đến cái thần của sự vật, ít khi tả thật cụ thể, chi li các màu sắc, đường nét.
-> Tinh thần bình tĩnh, ung dung và tự tin của nhà thơ cách mạng.
II. TK: GN / 143
Bài thơ Nguyên Tiêu gợi cho em nhớ tới những tứ thơ, câu thơ và hình ảnh thơ nào trong thơ cổ trung Quốc và Việt Nam mà em đã học và đọc được?
Bài nguyên Tiêu có nhiều hình ảnh và từ ngữ rất tương đồng với những hình ảnh và từ ngữ trong nhiều câu thơ cổ của Trung Quốc, đặt biệt là thơ Đường. Cả tứ thơ cũng vậy (ví dụ; bài “ Phong Kiều Dạ bạc” (trang 112) của Trương Kế với câu cuối “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền – Nửa đêm tiếng chuông văng vẳng vọng đến thuyền khách”, và câu “Thu Thủy cộng trường thiên nhất sắc” trong bài phú Đằng Vương Các của Vương Bột). Bài thơ “ nguyên Tiêu” sử dụng nhiều chất thi ca cổ, nhưng vẫn là một tác nghệ thuật đặc sắt của Hồ Chí Minh, mang vẻ đẹp, sức sống và tinh thần của thời đại mới, khác với thơ Đường.
HS đọc 2 câu “chuyển hợp’: phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ?
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự ( Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân sự -> giữa dòng bàn bạc việc quân). Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” (Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền -> Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
Trong hai câu cuối, cảnh trăng tiếp tục đựoc mtả ntn? 
Trong nguyên tác, câu thứ ba cho ngừoi đọc biết thêm điều gì, gợi lên không khí gì?
Câu 4 gợi ta nhớ đến câu thơ Đường nào, trong bài gì, của ai?
Câu thơ thứ ba ( Câu chuyển) không chỉ vẽ lên cái không khí mờ ảo của đêm trăng rừng nơi chiến khu Việt Bắc (yên ba thâm xứ) mà còn hé mở nhận ra cái không khí của thời đại, hội họp bí mật, khẩn trương của TW Đảng, chính phủ và Bác Hồ trong những năm tháng gay go ấy. Đây cũng là giờ phút hiếm hoi của Bác trên đường về sau những hội nghị quan trọng liên quan đến cuộc chiến đấu của tòan quân trên các chiến trừơng, chiến khu. Thế mà câu kết vẫn sáng ngời, tràn trề lai láng ánh trăng: Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Câu thơ thứ tư gợi nhớ đến bài “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế: Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền – Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn văng vẳng tới). Nhưng ở đây mất hẳn cái trầm mặc, thâm u buồn mênh mông, xa vắng mà ngân lên bát ngát, cao vợi ánh trăng trong sáng, dịu dàng và lòng ngừoi ung dung, bình thản, tin tửong vào cuộc kháng chiến chống thực dân pháp trường kì gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
HĐ 4: Tìm hiểu phong thái ung dung lạc quan của Hồ Chí Minh thể hiện trong hai bài thơ? (h/s thảo luận)
Cả hai bàithơ đều được làm trong thời kỳ đầu kháng chiến đầy khó khăn gian khổ. bài cảnh khuya viết năm 1947, năm đầu của cuộc kháng chiến, vận nước đang rất khó khăn. bài Nguyên tiêu được viết năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc rất quan trọng của quân và dân ta đánh bại cuộc tấn công qui mô lớn cũa giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc . Đặt trong hoàn cảnh ấy chúng ta càng thấy rõ sự bình tĩnh, chủ động , lạc quan, ở vị lãnh tụ. Phong thái ấy thoát ra từ những rung động tinh tế và dồi dào trước cái đẹp của thiên nhiên đất nước (một đêm trăng rừng, một tiếng suối trong hay khung cảnh trời nước bao la dưới ánh trăng rằm tháng giêng).
 Phong thái ung dung, lạc quan cò thể hiện ở hình ảnh con thuyền của vị lãnh tụ và các đồng chí sau lúc bàn bạc việc quân trở về , lướt đi phơi phới, chở đầy ánh trăng giữa cảnh trới nước bao la cũng ngập tràn ánh trăng. Phong thái ấy cũng được toát ra từ giọng thơ cvừa cổ điển, vừa hiện đại khỏe khắn , trẻ trung.
HĐ 5: Tổng kết về nội dung về nghệ thuật của hai nhà thơ ( phần ghi nhớ SGK/ 143)
Thử phân tích, so sánh những đặc sắc chung , riêng qua 2 bài thơ của Bác?
Chung: cảnh đêm trăng rừng Việt Bắc, cảnh đẹp tràn ngập ánh trăng trong trẻo, bát ngát như rất yên bình. Tâm hồn người nghệ sĩ ngắm trăng đồng thời là vị lãnh tụ hết lòng vì dân vì nước. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt vừa ảnh hưởng Đường thi, cổ điển vừa sáng tạo, hiện đại. Trong thơ có nhạc, có họa, lời thơ tự nhiên, câu chuyển, câu kết đều có sáng tạo mới mẻ.
Riêng: ở bài Cảnh khuya là cái bản lề chưa ngủ, là cảnh lồng cảnh, đan xen, hòa quyện, là so sánh tiếng suối với tiếng hátở bài Rằm tháng giêng là ánh trăng bát ngát, là sông, trời, nước mùa xuân tất cả không gian tràn ngập trong ánh trăng và tràn ngập tinh thần bình tĩnh, ung dung tự tin của nhà thơ cách mạng.
Luyện tập: tìm đọc và chép lại một số bài thơ, câu thơ của bác Hồ viết về trăng hoặc cảnh thiên nhiên: 
- Tin thắng trận .
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Aáy tin thắng trận liên khu báo về
 - Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp hôm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài của sổ 
Trăng nhòm khe của ngắm nhà thơ
- Đất trời một thóang màu khe ướt
Sông núi muôn trùng trải gấm phơi
Trời ấm hoa cười chào gió nhẹ
Cây cao chim hót rộn cành tươi
Người cùng vạn vật đều phơi phới
Hết khổ rồi vui, lẽ ở đời.
- Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước no
------HẾT-----

Tài liệu đính kèm:

  • docb12-t1-Ckhuya-rthgieng.doc