Giáo án môn Ngữ văn khối lớp 9 - Tiết: Kiểu ở lầu ngưng bích

Giáo án môn Ngữ văn khối lớp 9 - Tiết: Kiểu ở lầu ngưng bích

I. Đọc và tìm hiểu chung

1. Vị trí đoạn trích

- Đoạn trích thuộc phần III: “gia biến và lưu lạc” gồm có 22 câu thơ (từ câu 1033 – câu 1054)

II. Phân tích

1. sáu câu thơ đầu

- Bút pháp tả cảnh, phép đối

- Nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu cữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: “Bốn bề bát ngát xa trông” cảnh “non xa, trăng gần” như gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời nước.

Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thất những dãy núi mở xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu chơi vơi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người

- Hình ảnh: “non xa, trăng gần, cát vòng, bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi lên sự mênh mông rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều

* Thiên nhiên mênh mông, rợn ngợp hoang vắng

- Hỉnh ảnh trăng, mây sớm đèn khuya gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian cũng như không gian hãm con người. Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thần”. Nàng chỉ còn biết làm bạn với “mây sớm đèn khuya”

Qua khung cảnh thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích, Thuý Kiều rơi vào tình cảnh cô đơn tuyệt đói. Nàng trơ trọi giữa không gian, thời gian mênh mông, hoang vắng: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya – nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Kiều chỉ biết sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn, thức ngủ một mình, thui thủi triền miên, ngao ngán và vô vọng (bẽ bàng). Nàng không chỉ buồn về cảnh mà còn buồn về tình, hai nỗi buồn ấy chia xé tâm hồn nàng.

 

doc 3 trang Người đăng minhquan88 Lượt xem 621Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn khối lớp 9 - Tiết: Kiểu ở lầu ngưng bích", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KIỂU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
 (Trích: “Truyện Kiều”) - nguyễn Du-
I. Đọc và tìm hiểu chung
1. Vị trí đoạn trích
- Đoạn trích thuộc phần III: “gia biến và lưu lạc” gồm có 22 câu thơ (từ câu 1033 – câu 1054)
II. Phân tích
1. sáu câu thơ đầu
- Bút pháp tả cảnh, phép đối
- Nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu cữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: “Bốn bề bát ngát xa trông” cảnh “non xa, trăng gần” như gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời nước. 
Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thất những dãy núi mở xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu chơi vơi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người
- Hình ảnh: “non xa, trăng gần, cát vòng, bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi lên sự mênh mông rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều
* Thiên nhiên mênh mông, rợn ngợp hoang vắng
- Hỉnh ảnh trăng, mây sớm đèn khuya gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian cũng như không gian hãm con người. Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thần”. Nàng chỉ còn biết làm bạn với “mây sớm đèn khuya”
Qua khung cảnh thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích, Thuý Kiều rơi vào tình cảnh cô đơn tuyệt đói. Nàng trơ trọi giữa không gian, thời gian mênh mông, hoang vắng: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya – nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Kiều chỉ biết sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn, thức ngủ một mình, thui thủi triền miên, ngao ngán và vô vọng (bẽ bàng). Nàng không chỉ buồn về cảnh mà còn buồn về tình, hai nỗi buồn ấy chia xé tâm hồn nàng.
* Kiều cô đơn buồn tủi, đau đớn
2. Tám câu thơ giữa
- Đầu tiên Kiều nhớ tới Kim Trọng. Điều này vừa phủ hợp với qui luật tâm lí. Vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau là hoàn toàn phủ hợp với lo gich tâm trạng. Kiều đã bị Mã Giám Sinh làm nhục và đang bị ép tiếp khách làng chơi nên nỗi đau lớn nhất của Kiều là “tấm son gột rửa bao giờ cho phai” vì vậy người mà nàng thương nhớ đầu tiên là Kim Trọng
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
- Nhớ người tình là nhớ đến tình yêu quê hương bao giờ cũng nhớ tới lời thề đôi lứa: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Một lần khác, nàng nhớ về Kim Trọng cũng là: “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Nàng tưởng tượng cảnh Kim Trọng cũng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích. “tin sương luống những ngày trông mai chờ”. Nàng nhớ về Kim Trọng với tâm trạng đau đớn xót xa. Lời thơ ít mà ý thơ nhiều, ngộc ngữ độc thoại được tác giả sử dụng một cách tài tình. Trong lời thơ như có nhịp thổn thức của một trái tim yêu thương nhớ máu. Câu thơ “Tấm son gột rửa bao giừo cho phai” có hai cách hiểu: tấm lòng son là tấm lòng nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi, quên hoặc tấm lòng son của Kiều bị vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa được.
* Kiều nhớ Kim Trọng với tâm trạng đau đớn, xót xa
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Lân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người âm.
- Thành ngữ: quạt nồng ấp lạnh
- điển cổ: Lân Lai, gốc tử
- Sau nỗi nhớ người yêu là nhớ đến cha mẹ. Nghĩ tới song thân, Kiều thương và xót. Nàng thương cha mẹ khi sáng, khi chiều tựa cửa ngóng tin con trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà nàng không được tự tay chăm sóc và hiện thời ai người trông nom. Thành ngữ “quạt nồn ấp lạnh”, điển cố “sân lai”, “gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đều đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là “gốc tử đã vừa người âm”, nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vửa nói được thời gian cách xa bao mùa mưa nắng vừa nói lên được sức mạnh tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với cảnh vật và con người. Lần nào khi nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ.
* Kiều xót thương va day dứt khôn nguôi vì không làm tròn chữ hiếu với cha mẹ mình
- Trong cảnh ngộ ở lầy Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất, nhưng nàng đã quên cảnh ngộ bản thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Kiều là người tình thuỷ chúng, người con hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha đáng trọng
* Kiều là người tình thuỷ chung, người con hiễu thảo, người có tấm lòng vị tha đáng trọng
8 câu thơ cuối
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới ra,
Hoa trô man mác biết là về đâu.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh,
Buồn trong gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sống kêu quanh ghế ngồi.
- 4 cặp câu thơ tương ứng bắt đầu bằng từ “buồn trông”, điệp ngữ
- Câu cuối đều là thanh bằng
- Nhiều từ láy, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
- Diễn tả tâm trạng Kiều, Nguyễn Du chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy”, “cảnh trong tình này”. Mỗi biểu hiện của cảnh chiều tà bên bờ biển, từ cánh buồm thấp thoáng,cảnh”hoa trôi mam mác” đến “nội cỏ rầu rầu” tiếng sóng ầm ầm, đều thể hiện tâm trạng và cảnh ngọ của Kiều: sự cô đơn, thân phận nổi nênh vô định, nỗi buồn tha hương, lòng thương nhớ người yêu
cha mẹ và cả sự bàng hoàng lo sợ. Đúng là cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn quan tâm trạng Kiều: cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ. Ngọn gió cuốn mặt duềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng như báo trước dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều và quả thực, ngay sau lúc này, Kiêu đã mắc lừa Sở Khanh để rồi phải lâm vào cảnh “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”
- Điệp ngữ “buồn trông” mở đầu câu thơ sáu chữ, tạo âm hưởng trầm buồn. “Buồn trông” đã trở thành điệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng buồn đau, chua xót, lo sợ, vô vọng
- Cùng với tâm trạng cô đơn, thương nhớ ở hai phần trên, phần cuối này góp phần tạo nên vẻ đẹp thuỷ chung, hiếu thảo và nhân hậu ở Thuý Kiều
* Đoạn thơ miêu tả sự cô đơn, thân phạn nổi nênh vô định, nỗi buồn ta hương, lòng thương nhớ người yêu và cha mẹ và cả sự bàng hoàng lo sợ của Kiều
III. Tổng kết – ghi nhớ
- Nghệ thuật: “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình
- Nội dung: đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo của Thuý Kiều
VI. Luyện tập
? Thế nào là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình? Khá
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm trạng. Cảnh không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. cảnh ở đây là phương tiện miêu tả còn tâm trạng là mục đích miêu tả

Tài liệu đính kèm:

  • docKieu o lau Ngung Bich 7.doc