Giáo án Ôn tập Ngữ văn 9 - Năm học 2008 - 2009

Giáo án Ôn tập Ngữ văn 9 - Năm học 2008 - 2009

I/ Cách viết phần mở bài:

1. Mục đích :

 Mục đích của phần mở bài là nhằm giới thiệu vấn đề mà mình sẽ viết, sẽ trao đổi, bàn bạc trong bài. Vì thế khi viết Mở bài thưc chất là trả lời câu hỏi : Anh (chị ) định viết, định bàn bạc vấn đề gì ?

 a. Mở bài trực tiếp : Tức là trả lời thẳng vào việc đó.

 VD : Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.

 Mở bài trực tiếp : Nói đến Chính Hữu không thể khong nói đến bài thơ “Đồng chí”.Bài thơ như một điểm sáng trong tập “Đầu súng trăng treo”- tập thơ viết về đề tài người lính của ông.

 b. Mở bài gián tiếp: Tức là dẫn ra một ý khác có liên quan gần gủi sau đó nêu vấn đề sẽ bàn trong bài. Để bài viết có không khí tự nhiên và có chất văn, người ta thường mở bài theo kiểu gián tiếp. Có nhiều cách mở bài gián tiếp này nhưng tựu trung có 4 cách cơ bản:

 Cách 1: Diễn dịch (suy diễn )

 Cách 2: Quy nạp

 Cách 3: Tương liên (tương đồng )

 Cách 4: Tương phản (đối lập )

 

doc 5 trang Người đăng minhquan88 Lượt xem 624Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ôn tập Ngữ văn 9 - Năm học 2008 - 2009", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngày soạn : 30/10/2008
Buổi 5 : Cách viết một bài văn nghị luận hay
I/ Cách viết phần mở bài:
Mục đích :
 Mục đích của phần mở bài là nhằm giới thiệu vấn đề mà mình sẽ viết, sẽ trao đổi, bàn bạc trong bài. Vì thế khi viết Mở bài thưc chất là trả lời câu hỏi : Anh (chị ) định viết, định bàn bạc vấn đề gì ?
 a. Mở bài trực tiếp : Tức là trả lời thẳng vào việc đó.
 VD : Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
 Mở bài trực tiếp : Nói đến Chính Hữu không thể khong nói đến bài thơ “Đồng chí”.Bài thơ như một điểm sáng trong tập “Đầu súng trăng treo”- tập thơ viết về đề tài người lính của ông.
 b. Mở bài gián tiếp: Tức là dẫn ra một ý khác có liên quan gần gủi sau đó nêu vấn đề sẽ bàn trong bài. Để bài viết có không khí tự nhiên và có chất văn, người ta thường mở bài theo kiểu gián tiếp. Có nhiều cách mở bài gián tiếp này nhưng tựu trung có 4 cách cơ bản:
 Cách 1: Diễn dịch (suy diễn )
 Cách 2: Quy nạp
 Cách 3: Tương liên (tương đồng )
 Cách 4: Tương phản (đối lập )
 Dù viết mở bài gián tiếp theo cách nào thì trong đó cũng cần làm rõ 3 vấn đề:
 1. Dẫn dắt
 Mở bài 2. Nêu vấn đề (luận đề ) 
 3. Giới hạn, phạm vi vấn đề
Một số vấn đề cần tránh :
Tránh dẫn dắt vòng vo quá xa mãi mới gắn được vào viẹc nêu vấn đề.
Tránh ý dẫn dắt không liên quan gì đến vấn đề sẽ nêu.
Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, có gì nói hết luôn rồi thân bài lại lặp lại những đièu đã nói ở phần Mở bài
Một mở bài hay cần phải :
Ngắn gọn: Dẫn dắt thường vài ba câu, nêu vấn đề một vài câu và giới hạn vấn đề một câu.
Đầy đủ: (đủ 3 vấn đề )
Độc đáo : gây được sự chú ý của người đọc.
Tự nhiên :Giản dị, tự nhiên, tránh vụng vềgượng ép tránh gây cho người đọc khó chịu bởi sự giả tạo.
Một số Mở bài tham khảo :
 Đề :Cảm nhận về bức tranh xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.
Mb 1: Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ,là văn, là nghệ thuật đích thựcthì vẫn còn mãi mãi với thời gian. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm nghệ thuật như thế, đặc biệt là đoạn thơ viết về cảnh ngày xuân – một mùa xuân mới mẻ, tinh khôi và giàu sức sống.
Đề : Cảm nhận về người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
Mb 2 : Có những tác phẩm khi đọc xong gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến lúc xem lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những cuốn sách như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một tác phẩm như thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã tạc vào dòng lịch sử một tượng đài về người chiến sĩ hồn nhiên, ngang tàng và ngạo nghễ.
Đề : Phân tích khổ thơ đầu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Mb 3 : 
 Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
 Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa?
 (Mai sau)
 Trước cách mạng tháng tám, thơ Huy Cận thường u sầu ảo não. Nhưng từ khi cách mạng tháng tám thành công đã tiếp thêm cho thơ ông một luồng sinh khí mới, những trang thơ dạt dào niềm vui khi viết về cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm như thế. Nó đã ghi lại cuộc hành trình đẹp đẽ của đoàn thuyền: ra khơi lúc hoàng hôn, đánh cá lúc trăng lên và trở về lúc bình minh. Nhưng có lẽ khung cảnh đẹp đẽ và hùng vĩ nhất là lúc đoàn thuyền ra khơi được thể hiện rõ trong khổ thơ đầu.
Đề : Phân tích nhân vật Chí Phèo trong bài thơ cùng tên của Nam Cao.
Mb 4 : Khi “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ra đời tôi chắc ít ai nghĩ rằng, thân phận người nông dân dưới ách đế quốc phong kiến lại có thể có một nỗi khổ nào hơn những nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha. Nhưng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam cao, thì người ta mới nhận ra rằng đây là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa.
Bài tập : Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương trong t/p “Chuyện người con gái Nam Xương”
 ( Viết phần Mở bài cho đề văn trên )
II/ Cách viết phần kết bài:
Nguyên tắc kết bài : Thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài, chỉ nêu những ý khái quát có tính tổng két, đánh giá. Không lan man hay lặp lại cụ thể những gì đã trình bày ở phần thân bài hoặc lặp nguyên văn lời lẽ ở mở bài.
 Có 4 cách kết bài cơ bản:
 - Cách 1: Tóm lược ( tóm tắt quan điểm, nội dung đã nêu ở thân bài )
 - Cách 2: Vận dụng (nêu phương hướng, bài học áp dụng phát huy hay khắc phục vấn đề nêu trong bài văn)
 - Cách 3 : Liên tưởng (mượn ý kiến tương tự –những ý kiến có uy tín- để thay cho lời tóm tắt của người làm bài)
 - Cách 4 : Phát triển (mở rộng thêm vấn đề đặt ra trong đề bài)
 Một kết bài hay trước hết là một két bài đúng. Đúng nguyên tắc, đúng cách. Cho nên để có một kết bài hay bạn phải từ cái nền cơ bản “ đúng” ấy mà đi lên.
Một số kết bài tham khảo:
Đề 1: Phân tích khổ thơ cuối bài thơ “Anh trăng” của Nguyễn Duy.
Kết bài : Bằng cách viết giản dị, mộc mạc, thật khó tìm ra những lời thơ hoa mĩ nhưng khổ thơ vẫn đủ sức hấp dẫn người đọc. Phải chăng cái hấp dẫn đó chính là dòng cảm xúc và tấm lòng chân thành của tác giả? Phải chăng những gì xuất phát từ trái tim thì dễ dàng đến được trái tim, để qua đó tác giả muốn nhắc nhở ta: hãy đừng lãng quên đi quá khứ !
Đề 2: Phân tích tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
Kết bài: Nhà văn Nga I.Ê-ren-bua cho rằng: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu tổ quốc”. Ông Hai đúng là con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước. Tình yêu làng, yêu nước xuất phát từ những vật tầm thường đó là nét mới mẻ của Kim Lân khi xây dựng nhân vật ông Hai.
Đề 3: Phân tích tình cảm chân thành của nhà thơ đối với Bác thể hiện trong bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viẽn Phương.
Kết bài: Viết về Bác không ai giống ai nhưng tất cả đều giống Bác. Thật vậy Viễn Phương không đi xây dựng chân dung vị lãnh tụ đang lãnh đạo phong trào cách mạng mà đi xây dựng chân dung Hồ Chủ Tịch trong lòng mỗi con người Việt Nam. Đó là tất cả những tình cảm chân thành của tác giả nói riêng và nhân dân Viẹt Nam nói chung đối với Bác.
III/ Cách viết phần thân bài:
 Sau khi đã có ý(luận điểm, luận cứ) rồi thì vấn đề quan trọng hơn cả là biết diễn đạt hay. Tức là biết diễn đạt một cách khéo léo những ý của người viết thành một bài văn cụ thể. Nhiều khi diễn đạt đủ ý nhưng một người đạt điểm trung bình, người khác lại đạt điểm giỏi. Diễn ý hay phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Sau đây là một số yếu tố để diễn đạt được ý hay:
Giọng văn và sự thay đổi giọng văn trong bài viết:
 Để tránh nhàm chán, “buồn ngủ”, để bài viết thêm sinh động, phong phú, 
 người viết cần phải rất linh hoạt trong việc hành văn. Tránh kiểu viết đều đều từ đầu chí cuối, tạo cảm giác đơn điệu. Muốn thế trước hết cần sử dụng linh hoạt từ ngữ xưng hô.
 Ví dụ:
Khi biểu thị ý kiến của riêng mình, người ta thường viết: tôi cho rằng, tôi 
 nghĩ rằng, theo chỗ tôi được biếtNhưng để lôi kéo sự đồng tình, đồng cảm, để vấn đề đang bàn bạc khách quan hơn, người viết thường xưng: chúng tôi, ta, chúng ta, như mọi người đều biết, như mọi người đã thấy, ai cũng thừa nhận rằng, không ai nghĩ được rằng
Khi viết về ngôi thứ ba như gọi tên nhân vật thì cần thay đổi đại từ một cách linh hoạt , tránh sự lặp lại nhàm chán. Ví dụ nhân vật Mã Giám Sinh thì có thể thay bằng y, gã, hắn, nó, kẻ buôn thịt bán người, kẻ thư sinh dởm
Khi viết về ngôi thứ ba như tên tác giả nhiều học sinh từ đầu đến cuối bài văn chỉ dùng một từ “nhà văn” hoặc “tác giả” mà không biết thay đổi cách gọi. Viết về Tố Hữu ta có thể thay bằng các từ như: nhà thơ, ông, tác giả, người thanh niên cộng sản, người con xứ Huế, tác giả tập Việt Bắc
Không phải chỉ ở cách xưng hô, giọng văn linh hoạt mà còn thể hiện ở cách dùng các tiểu từ như: vâng, đúng thế, không, điều ấy đã rõ, như vậy, như thế, chẳng lẽnhững từ này tạo ấn tượng như người viết đang tranh luận và đối thoại trực tiếp với người đọc.
VD: “Vâng xét ở một phương diện nào đó, có thể xem Nam Cao thuộc vào xu hướng văn học của những người đói”
 (Kiến thức ngày nay- số 71)
Trong quá trình viết bài văn nghị luận không nên chỉ dùng một loại thao tác tư duy mà luôn luôn thay đổi, khi thì dùng diễn dịch, khi thì dùng quy nạp, khi thì phân tích trước dẫn chứng sau, khi thì dùng dẫn chứng trước phân tích sau, khi thì liên hệ, khi thì so sánhcũng là để bài viết sinh động, phong phú hơn.
Dùng từ độc đáo:
Viết văn nghị luận phải dùng được những từ hay, đoạn hay rồi mới có bài văn hay. Dùng từ hay là một trong những yếu tố quyết định để có cách diễn đạt hay. Bài văn hay là bài văn đó đọc lên từ cứ như “găm” vào tâm khảm người đọc, từ ngữ linh hoạt, dùng đúng lúc, đúng chỗ, lột tả được thần thái của sự vật, sự việclàm cho người đọc khoái chá thấy mình không thể viết được như vậy, phải thốt lên lời cảm phục.
VD: “Chương XIII “Tắt đèn” không khác gì một cái lòng chảo đã nguội đi, đã váng đọng lại một thứ bùn lưu niên, trên đó oằn lên một số sinh vật. Sinh vật Nghị Quế chồng, sinh vật Nghị Quế vợ, mà lòng tham đã hết tính người. Sinh vật lí trưởng và lũ sai nha đốc thuế người, đã tan hoang đi cái tâm người. Và trên cái sa mạc nhân tâm đó không còn tia nước nguồn thương nào cả”
 (Nguyễn Tuân – Tắt đèn của Ngô Tất Tố)
“Khúc bạc mệnh đã gẩy xong rồi, mà oán hận vẫn còn dài mãi nên Nguyễn Du mới tự xưng cái tên thân mật của mình và đau đáu hỏi:
 Bất tri tam bách dư niên hậu
 Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
 (Xuân Diệu –Nguyễn Du- Văn nghệ số 18)
Viết câu linh hoạt
 Tuỳ từng lúc, từng nơi, tuỳ vào giọng văn của từng đoạn mà có những loại câu tương ứng để diễn đạt cho phù hợp. Thậm chí có khi cùng một đoạn văn mà các câu ngắn, dài được viết rất khác nhau.
VD: “Trời đất ơi! Tú Bà nói không đầy nửa phút mà nước bọt mép của mụ văng ra mãi tới ngàn năm”
 (Xuân Diệu –Văn nghệ số 18)
Khi muốn gây chú ý cho người đọc, ta có thể dùng câu nghi vấn. Câu nghi vấn ở đây như là đặt ra vấn đề, rồi sau đó lại tự trả lời, tự làm sáng tỏ.
VD: “Thương thì đã vậy, còn oán? Thực ra Nguyễn Du không biết oán ai,bởi vì theo ông thì bao nhiêu đau thương khác đâu có phải đều do những kẻ bài binh bố trận, mà ngay cả những kẻ ấy, Nguyễn Du cũng thấy họ đáng thương”
 (Hoài Thanh)
Một loại câu cũng được vận dụng làm thay đổi giọng văn trong bài văn nghị luận là loại câu có hai mệnh đề hô - ứng. Chúng thường theo lối kết cấu: tuynhưng; càngcàng; không những mà còn; vì thếcho nênLoại câu này nhằm nhấn mạnh một ý nào đó nằm ở vế thứ hai. 
VD: “Bài thơ không chỉ hay về nghệ thuật mà còn rất sắc sảo về nội dung tư tưởng”.
Bài tập: Viết một đoạn văn trình bày ý: Tình đoàn kết, gắn bó của người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.

Tài liệu đính kèm:

  • doccach viet bai van hay.doc