Kinh nghiệm rèn kĩ năng làm văn cho học sinh giỏi văn đội tuyển thi quốc gia

Kinh nghiệm rèn kĩ năng làm văn cho học sinh giỏi văn đội tuyển thi quốc gia

KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN CHO HỌC SINH GIỎI VĂN ĐỘI TUYỂN THI QUỐC GIA

 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Là giáo viên, chắc hẳn ai cũng mong muốn mình được dạy những học sinh giỏi, có niềm đam mê vói môn học. Đó vừa là niềm vinh dự nhưng cũng là thách thức đối với người thầy. Bởi dạy học sinh giỏi, trực tiếp hướng dẫn những học trò chăm ngoan, người thầy ngoài kiến thức, kinh nghiệm, tâm huyết còn phải học tập không ngừng, phải luôn học hỏi nâng cao tay nghề.

Đã từng là giáo viên, sau này là chuyên viên rồi Phó trưởng phòng GDTrH, tôi có vinh dự nhiều năm tham gia bồi dưỡng, tập huấn đội tuyển học sinh giỏi thi vòng Quốc gia và cũng có nhiều thế hệ học sinh đạt giải cao (giải Ba, giải Nhì), có nhiều em sau này đã trở thành đồng nghiệp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để có thể rèn kĩ năng làm văn cho học sinh đội tuyển giỏi văn thi Quốc gia. Thấy được tầm quan trọng đó, tôi quyết định chọn đề tài "Kinh nghiệm rèn kĩ năng làm văn cho học sinh giỏi văn" để nghiên cứu, với hi vọng góp phần nhỏ công sức của mình vào việc bồi dưỡng học sinh giỏi văn thi học sinh giỏi vòng Quốc gia cho tỉnh Cà Mau.

 

doc 12 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 1378Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm rèn kĩ năng làm văn cho học sinh giỏi văn đội tuyển thi quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN CHO HỌC SINH GIỎI VĂN ĐỘI TUYỂN THI QUỐC GIA
	PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ	
Là giáo viên, chắc hẳn ai cũng mong muốn mình được dạy những học sinh giỏi, có niềm đam mê vói môn học. Đó vừa là niềm vinh dự nhưng cũng là thách thức đối với người thầy. Bởi dạy học sinh giỏi, trực tiếp hướng dẫn những học trò chăm ngoan, người thầy ngoài kiến thức, kinh nghiệm, tâm huyết còn phải học tập không ngừng, phải luôn học hỏi nâng cao tay nghề. 
Đã từng là giáo viên, sau này là chuyên viên rồi Phó trưởng phòng GDTrH, tôi có vinh dự nhiều năm tham gia bồi dưỡng, tập huấn đội tuyển học sinh giỏi thi vòng Quốc gia và cũng có nhiều thế hệ học sinh đạt giải cao (giải Ba, giải Nhì), có nhiều em sau này đã trở thành đồng nghiệp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để có thể rèn kĩ năng làm văn cho học sinh đội tuyển giỏi văn thi Quốc gia. Thấy được tầm quan trọng đó, tôi quyết định chọn đề tài "Kinh nghiệm rèn kĩ năng làm văn cho học sinh giỏi văn" để nghiên cứu, với hi vọng góp phần nhỏ công sức của mình vào việc bồi dưỡng học sinh giỏi văn thi học sinh giỏi vòng Quốc gia cho tỉnh Cà Mau.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
Dạy và học văn - kĩ năng làm văn. 
Phương pháp dạy học dạy học môn Ngữ văn.
Đổi mới phương pháp dạy học.
II. Thực trạng công tác dạy học sinh giỏi văn thi học sinh giỏi quốc gia ở Cà Mau
1. Thuận lợi:
- Nhìn chung tỉnh Cà Mau, có mặt bằng kiến thức môn Ngữ văn khá tốt, có nhiều học sinh có năng khiếu và đam mê văn chương.
- Hằng năm, Sở GD&ĐT đều tổ chức tốt công tác thi học sinh giỏi, cũng như thi chọn đội tuyển để chọn những em xuất sắc nhất bồi dưỡng, tập huấn dự thi vòng Quốc gia.
- Công tác bồi dưỡng, tập huấn học sinh tham gia thi vòng Quốc gia ở tỉnh Cà Mau luôn nhận được sự quan tâm của UBND tỉnh và Sở GD&ĐT (học sinh được học tập trung tại trường THPT chuyên Phan Ngọc Hiển).
- Đội ngũ giáo viên dạy bồi dưỡng có chuyên môn vững vàng, tâm huyết với công việc bồi dưỡng, tập huấn học sinh giỏi.
2. Khó khăn
- Học sinh có năng khiếu môn Ngữ văn nhưng còn phân tán thời gian và tư tưởng cho việc luyện thi đại học nên chưa có sự đầu tư thỏa đáng.
- Việc phát hiện và chọn học sinh giỏi còn nhiều bất cập (học sinh được chọn vào đội tuyển có nhiều em là học sinh 11) trình độ học sinh không đồng đều nên gây khó khăn trong việc rèn kĩ năng làm văn.
- Học sinh ít được tiếp xúc với đề thi và đáp án thi vòng Quốc gia của Bộ GD&ĐT nên kĩ năng nhận diện bản chất đề còn yếu.
- Thời gian dạy bồi dưỡng quá ngắn (chỉ trên dưới 4 tuần) nên việc rèn luyện kĩ năng chưa thật sự được chú trọng hoặc có quan tâm nhưng chưa sâu.
II. Biện pháp rèn kĩ năng làm văn cho học sinh giỏi văn
Căn cứ vào đối tượng học sinh (học sinh được chọn vào đội tuyển là học sinh 11 hay 12, học sinh trường chuyên hay trường huyện); căn cứ vào những yêu cầu cơ bản có tính ổn định và những đổi mới của kì thi học sinh giỏi Quốc gia; căn cứ vào quỹ thời gian cho phép để có kế hoạch thật cụ thể rèn luyện kĩ năng cho học sinh. 
Thời gian tập huấn cho học sinh ngắn nên chủ yếu xoáy vào hai yêu cầu trọng tâm: củng cố và nâng cao trình độ vận dụng các kĩ năng làm văn cho học sinh; rà soát lại các kiến thức cơ bản về văn học bao gồm: kiến thức về tác phẩm văn học cụ thể; kiến thức về lịch sử văn học; kiến thức về lí luận văn học và cách làm bài văn nghị luận xã hội.
Các kĩ năng làm văn cần rèn: 
- Nhận thức đề, 
- Lập dàn ý sơ lược, 
- Viết thành văn.
Để đạt những nội dung và yêu cầu đó, tôi đã tiến hành các bước rèn kĩ năng như sau:
1. Thầy ra đề một cách công phu
Thực tế giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi đã giúp bản thân tôi có được nhận thức thấm thía: Việc ra đề là một trong những khâu quan trọng đầu tiên của quá trình kiểm tra, đánh giá và lựa chọn học sinh giỏi. Đề đúng và hay sẽ phân hóa được trình độ học sinh, giúp người thầy nắm được điểm mạnh, điểm yếu của mỗi học sinh để đánh giá khách quan, chính xác, công bằng năng lực, sự cố gắng vươn lên của học sinh; đồng thời, tạo được nguồn sức mạnh tinh thần cho học sinh khi biết được năng lực của mình, tự tin và có hướng phấn đấu cụ thể.
Ngược lại đề thi thiếu chính xác sẽ không phát huy được sở trường của học sinh giỏi, chẳng những không đánh giá chính xác về năng lực của học sinh mà còn khiến học sinh hoang mang, thậm chí mất hứng thú học tập. Như thế toàn bộ quá trình rèn luyện kĩ năng sẽ trở nên vô nghĩa.
Đề chọn luyện đội tuyển Quốc gia phải bao quát được kiến thức cơ bản thuộc các phân môn, vừa đánh giá độ bền vững của kiến thức cơ bản, vừa tạo điều kiện học sinh được phát huy năng lực sáng tạo của mình ở các mặt: Nhận diện đúng và trúng bản chất của đề; khoanh vùng được giới hạn và phạm vi kiến thức cần huy động; đề xuất luận điểm; phát triển ý và tổ chức ý; cảm thụ tác phẩm; khái quát; tổng hợp,...
Thông thường với đội tuyển Quốc gia, ở Nghị luận văn học, tôi quan tâm tới các dạng đề sau:
a. Đề kiểm tra khả năng cảm thụ của một tác phẩm văn học cụ thể (dạng đề này gắn với những tác phẩm có ngay trong chương trình học). Ví dụ:
+ Phân tích giá trị nhân đạo độc đáo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
+ Sức hấp dẫn của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
Qua dạng đề này, chúng ta có thể kiểm tra được kiến thức cơ bản của học sinh về tác phẩm; nắm hệ thống chi tiết, hình ảnh; hiểu khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm; năng lực lựa chọn và cảm thụ tác phẩm nghệ thuật ở nhiều cấp độ khác nhau: Chỉnh thể tác phẩm - Hình tượng - Chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ,...
b. Đề kiểm tra kiến thức về lí luận văn học và cảm thụ tác phẩm
Dạng đề này phải bao quát được những vấn đề lí luận văn học cơ bản và thường yêu cầu học sinh phải soi sáng vấn đề lí luận văn học đó bằng sự cảm thụ tác phẩm văn học cụ thể (tác phẩm do học sinh tự chọn hoặc do giáo viên ấn định thuộc chương trình). Ví dụ: 
+ Nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: " Tác phẩm văn học lớn, hấp dẫn người ta bởi cách nhìn mới, tình cảm mới, về những việc, những điều mà ai cũng biết cả rồi" (trích Nhà văn nói về tác phẩm - NXB Văn học 1998 - trang 260). 
Anh chị hãy bình luận câu nói trên và phân tích sức hấp dẫn của một tác phẩm văn học mà anh chị cho là lớn.
+ Bàn về thơ Xuân Diệu có ý kiến : "Thơ hay là thơ chín đỏ trong cảm xúc". 
Anh chị hãy giải thích ý kiến trên và thông qua việc phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hoặc Sóng của Xuân Quỳnh để làm sáng tỏ.
Với dạng đề này chúng ta có thể kiểm tra được kiến thức của học sinh về những vấn đề lí luận cơ bản: Đặc trưng văn học, đặc trưng thể loại, phong cách nghệ thuật, bản chất của lao động nghệ thuật, giá trị và chức năng văn học, các mối quan hệ trong văn học, vai trò và tác dụng của văn học đối với đời sống. Đồng thời, củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm văn học, gắn lí luận văn học với việc cảm thụ cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học. Qua lí luận văn học, học sinh có căn cứ khoa học để đánh giá tác phẩm; qua tác phẩm, học sinh hiểu và biết khái quát nâng cao thành những vấn đề lí luận văn học cơ bản.
c. Đề kiểm tra về kiến thức văn học sử
Với loại đề này, tôi tập trung chú ý các vấn đề văn học sử cơ bản về một giai đoạn văn học, một khuynh hướng văn học, một tác gia văn học, một tác phẩm văn học. Ví dụ:
+ Sự trùng hợp tuyệt đẹp giữa Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh qua cuộc đời và sự nghiệp.
+ Sức sống ngòi bút Nam Cao qua truyện ngắn Chí Phèo.
+ Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975.
+ Sự chuyển hóa từ cảm hứng từ cảm hứng trữ tình - đạo đức sang cảm hứng trữ tình - yêu nước trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
d. Đề rèn thao tác so sánh văn học
Đây là một trong những dạng đề khó vì vậy học sinh có cơ hội phát huy những sở trường riêng, bộc lộ năng lực làm văn của một học sinh giỏi. Giải quyết dạng đề này đòi hỏi học sinh không chỉ có năng lực cảm thụ sâu tác phẩm văn học mà còn phải có vốn kiến thức phong phú, sâu rộng và tư duy phân tích - khái quát tốt. 
Chúng ta có thể cho học sinh so sánh các tác phẩm có cùng đề tài, cảm hứng, hình tượng trong một khuynh hướng văn học, một giai đoạn văn học, một tác giả hoặc khác giai đoạn, khuynh hướng, tác giả. Ví dụ:
+ Phân tích cảm hướng nhân đạo qua hai tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân và Một đám cưới của Nam Cao.
+ So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa Thu Vịnh của Nguyễn Khuyến và Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.
+ Phân tích đặc sắc riêng trong cảm hứng về đất nước trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và chương V Đất nước trích Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.
+ Vẻ đẹp hình tượng người lính qua hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Tây tiến của Quang Dũng.
Với nghị luận xã hội, tôi quan tâm tới dạng đề yêu cầu học sinh giải quyết một vấn đề nhưng có hai mặt vừa thống nhất vừa khác biệt và bổ sung cho nhau. Ví dụ:
+ Bước đi và dừng lại là hiện tượng thường gặp trong cuộc sống, nó giúp ta nhận thức về tự nhiên, xã hội và những suy nghĩ liên tưởng về nhân sinh.
Anh (chị) hãy viết một bài nghị luận về chủ đề: “Bước đi và dừng lại”.
+ Có người cho rằng: Để thành công và thăng tiến trong cuộc sống cần phải biết lãng quên những sai lầm, thất bại trong quá khứ; nhưng cũng có người cho rằng: Kí ức là một điều quan trọng trong cuộc sống, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.
Hãy phát biểu suy nghĩ của mình về vấn đề trên.
+ Anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ của mình về ý kiến sau: 
Trí tuệ giàu lên nhờ cái nó nhận được, con tim giàu lên nhờ cái mà nó cho đi. 
2 Tập trung rèn kĩ năng nhận diện bản chất đề thi học sinh giỏi
Đến vòng thi học sinh giỏi Quốc gia thử thách đầu tiên các em phải vượt qua là phải biết phân tích đúng và trúng đề. Bởi lẽ cái khó của đề thi ở cấp này nằm ngay trong cách diễn đạt các yêu cầu của đề.
Trong thời gian bồi dưỡng, tập huấn đội tuyển Quốc gia, tôi thấy cần cho các em làm quen với tất cả các dạng đề. Song đặc biệt chú ý dạng đề có cách diễn đạt dễ gây ngộ nhận cho học sinh về bản chất đề.
Ví dụ: Ở đề bài " Thơ là ngọn lửa nhen lên trong lòng người, một ngọn lửa đốt cháy, sưởi ấm, soi sáng. Nhà thơ chân chính là người dù không muốn và phải chịu đau đớn vẫn đốt cháy mình lên và đốt cháy những người khác" (Lep Tônxtôi). Anh (chị) hiểu như thế nào về ý kiến trên.
Học sinh khi phân tích đề đã nhận diện bản chất của đề rất khác nhau, có một số em cho rằng đây là lời bàn về đặc trưng thể loại thơ ca. Chỉ có một số ít học sinh hiểu đúng và trúng bản chất đề là: Khẳng định đặc trưng và tác dụng to lớn, kì diệu của thơ ca.
Có thể chọn những đề có thể bao quát kiến thức ở diện rộng, những đề có thể gây cho học sinh cảm giác ngợp bởi kiến thức, lúng túng trọng việc lựa chọn kiến thức. Nhờ thế chúng ta có thể đánh giá việc vận dụng và huy động kiến thức của học sinh (Chọn kiến thức cơ bản nào? Diện kiến thức cần huy động? Mức độ huy động các đơn vị kiến thức đến đâu?). Ví dụ:
Bàn về văn học, Pautôpxki cho rằng: "Văn chương ra đời để khám phá những bí ẩn của tâm hồn". Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy bình luận và làm sáng tỏ bằng những hiểu biết của bản thân về văn học?
Ở đề này, năng lực của học sinh sẽ được bộc lộ rõ trong việc xác định kiến thức cần huy động. (Văn học Việt Nam: Chọn văn học thuộc bộ phận nào? Giai đoạn nào? Tập trung sâu hơn vào tác phẩm nào, tác giả nào? Liên hệ văn học nước ngoài: Chọn tác phẩm nào? Của ai?)
Việc xác định thao tác nghị luận chỉ cần củng cố, hệ thống lại. Bởi muốn giải quyết chặt chẽ, thấu đáo bản chất đề thi Quốc gia, dù đề có yêu cầu hay không, học sinh vẫn phải vận dụng nhiều thao tác nghị luận khác nhau: Giải thích - Phân tích - Chứng minh - Bình luận - So sánh...
Điều cần chốt lại cho học sinh là xác định thao tác nào là chính, thao tác nào là hỗ trợ. Nắm chắc được yêu cầu này, học sinh sẽ có cơ sở xây dựng hệ thống luận điểm hợp lí và khoa học trong bài viết. Thông thường, luận điểm chính của bài viết đi đôi với những thao tác chính. Đây cũng là trọng tâm của bài viết. Những thao tác hỗ trợ thường gắn với những ý phụ, ý bổ sung giúp cho nội dung bài viết hoàn chỉnh, trọn vẹn.
Chẳng hạn: Với yêu cầu bài bình luận, học sinh sẽ phải vận dụng thao tác giải thích khái niệm, những cách diễn đạt hình ảnh có trong đề bài. Đó là thao tác hỗ trợ, ý trong phần giải thích chỉ là ý phụ. Thao tác chính học sinh phải huy động là bình luận. Những luận điểm thuộc phần bình luận là trọng tâm của bài.
Trong bước này, sau khi nhận thức đề, tôi thường yêu cầu các em viết thành phần mở - kết bài của những đề đã được luyện kĩ năng phân tích đề và nêu rõ hướng làm sáng tỏ nội dung bằng hệ thống câu hỏi ở nhà.
3. Rèn kĩ năng lập dàn ý
Tiếp tục củng cố kĩ năng nhận thức đề.
Cho học sinh lập dàn ý sơ lược theo yêu cầu:
- Đề xuất được hệ thống luận điểm cơ bản sẽ triển khai trong bài viết;
- Xác định được mối quan hệ giữa các luận điểm, tầm quan trọng của mỗi luận điểm trong việc thể hiện các yêu cầu của đề bài;
- Sắp xếp luận điểm theo một trình tự chặt chẽ và khoa học...
Để giúp học sinh thực hiện yêu cầu này, tôi thường hướng dẫn các em đặt hệ thống câu hỏi:
- Câu hỏi tìm luận điểm: Vấn đề cần giải quyết có thể được triển khai ở những khía cạnh, phương diện nào?
- Câu hỏi xác định quan hệ và vai trò của luận điểm: Những khía cạnh, phương diện ấy quan hệ với nhau như thế nào? Phương diện nào thể hiện tập trung rõ nét các yêu cầu trọng tâm của đề?
- Câu hỏi sắp xếp luận điểm: Các khía cạnh của nội dung cần nghị luận được trình bày như thế nào là tối ưu nhất?
Những nội dung này, học sinh được suy nghĩ và chuẩn bị trong khoảng 30 phút. Sau đó, mỗi học sinh sẽ trình bày phần chuẩn bị ngắn gọn bằng hình thức nói, yêu cầu phải nói rõ căn cứ để nhận thức đề, đề xuất luận điểm và sắp xếp ý. Cuối cùng giáo viên sẽ chữa hoàn chỉnh.
Ở bước này, phần làm việc ở nhà của học sinh là tiếp tục viết thành văn phần mở bài - kết bài và các câu đoạn chuyển ý.
Kĩ năng này nếu làm một cách ráo riết và nghiêm túc sẽ hình thành được ở học sinh khả năng chủ động và độc lập tư duy trong học tập, khắc phục được tình trạng học sinh làm bài theo kiểu "ngẫu hứng", tùy tiện nghĩ đâu viết đó, làm bài xong không biết mình viết gì. Tác dụng thiết thực của nó đối với học sinh trong thời gian bồi dưỡng đội tuyển Quốc gia là giúp các em khi tiếp cận đề thi có thể nhanh chóng hình thành hệ thống luận điểm làm định hướng kiến thức cho bài viết trong một khoảng thời gian ngắn (10 - 20 phút) cho mỗi câu. Như thế sẽ giúp cho bài viết đủ ý, mạch lạc. Đây cũng là một trong những biểu hiện tính khoa học của một bài văn học sinh giỏi.
Qua thực tế thấy rõ: Học sinh đội tuyển Quốc gia có khả năng nhận diện đề và lập dàn ý khá nhanh, tự tin, có ý thức rõ rệt cần phải thiết lập hệ thống luận điểm trước khi bắt tay vào viết bài. Kĩ năng lập dàn ý thường được rèn tập trung trong tuần thứ 2 và thứ 3 của thời gian bồi dưỡng.
4. Rèn kĩ năng viết văn
Đây là kĩ năng rất quan trọng bởi nhận thức đề trúng, đề xuất luận điểm hợp lí, có kiến thức phong phú chưa đủ, muốn có một bài viết hay, học sinh còn phải biết truyền đạt, trình bày những hiểu biết, những rung động, suy nghĩ của mình một cách mạch lạc, lôgic, sáng sủa, có sức thuyết phục. Hơn nữa, việc đánh giá lại căn cứ vào chính bài viết của học sinh.
Để rèn kĩ năng viết văn cho học sinh đội tuyển Quốc gia, tôi thường tiến hành theo hình thức:
a. Viết thành văn một đoạn ý gồm: 
- Đoạn văn giải thích; 
- Đoạn văn chứng minh một luận điểm trong bài, thường là những luận điểm chính. Với đoạn văn chứng minh, tôi thường rèn học sinh hai kĩ năng; kĩ năng chứng minh bằng tổng hợp - khái quát và khả năng chứng minh bằng sự cảm thụ sâu chi tiết;
 - Đoạn văn bình luận, nâng cao.
b. Viết thành bài văn hoàn chỉnh ở nhà trên cơ sở dàn ý đã được giáo viên chữa. Hình thức này, tôi yêu cầu học sinh viết 1 - 2 bài/1 tuần.
c. Viết thành hai bài văn hoàn chỉnh ở trên lớp (bài nghị luận xã hội và nghị luận văn học) trong thời gian qui định (180 phút). Học sinh viết 1 bài/2 tuần.
Trong kĩ năng này, tôi đặt yêu cầu: Học sinh trước hết phải viết được những đoạn văn diễn đạt lưu loát, mạch lạc, rõ ý; chữ viết phải sạch sẽ, dễ đọc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. Từ đó nâng cao dần yêu cầu: Viết đoạn văn có diễn đạt linh hoạt nhờ biết vận dụng những kiến thức cơ bản về cú pháp (các kiểu câu); viết được đoạn văn hay: Có cách dùng từ chính xác, sáng tạo, mới lạ; có giọng văn thể hiện được dấu ấn, phong cách của người viết.
Để đạt được những yêu cầu này, tôi thường hướng dẫn học sinh:
- Có thế đọc tham khảo những đoạn văn mẫu do giáo viên lựa chọn, định hướng;
- Có thể học tập cách viết của bạn trong đội ở những đoạn, ý mà giáo viên đã đánh giá là đúng và hay. Hình thức này rất hiệu quả bởi đó là những đoạn văn hay do chính các em viết. Khi tham khảo bài của bạn, các em rất dễ có ý thức phấn đấu vươn lên tạo sự cạnh tranh lành mạnh trong học tập;
- Giáo viên đầu tư viết mẫu những đoạn văn mà học sinh thường phải vận dụng (đoạn văn giải thích, đoạn văn chứng minh, đoạn văn phân tích - bình giảng, đoạn văn đánh giá, khái quát, nâng cao);
- Cuối cùng là học sinh phải bắt tay viết.
Kĩ năng viết thành văn được tiến hành thường xuyên trong suốt thời gian tập huấn và tập trung nhiều vào hai tuần cuối.
5. Chấm và chữa bài
Bài viết của học sinh chỉ thật sự có giá trị giúp học sinh rèn luyện kĩ năng làm văn khi được giáo viên chấm và chữa một cách công phu và tỉ mỉ. Đây cũng là công việc đòi hỏi người giáo viên không chỉ kiến thức, năng lực mà còn cả thời gian, kinh nghiệm và tâm huyết.
Khi chấm bài, giáo viên phải bao quát được tất cả các yêu cầu khi ra đề (kĩ năng, kiến thức), đặc biệt chú tới loại kĩ năng cần rèn cụ thể, loại kiến thức cần củng cố qua đề bài đó trong quá trình chấm bài. Giáo viên phải chỉ ra được điểm mạnh và điểm yếu cơ bản ở mỗi bài, đồng thời theo dõi và động viên kịp thời được mức độ tiến bộ của mỗi học sinh trong từng bài viết.
Việc chữa bài có thể kết hợp nhiều hình thức: 
- Giáo viên có thể chữa ở từng bài học sinh các loại lỗi: Dùng từ chưa chính xác, chưa hay; tổ chức và sắp xếp các ý chưa hệ thống, chưa khoa học, chưa chặt chẽ; viết câu, tách đoạn chưa mạch lạc, hợp lí; lời văn chưa linh hoạt tự nhiên; giọng văn chưa phù hợp với nội dung trình bày...
- Giáo viên có thể chấm bài tay đôi với học sinh: Cho học sinh tự đọc bài mình trước (ở nhà) và tự nhận biết các lỗi, giáo viên phân tích cho học sinh hiểu nguyên nhân và định hướng cách chữa, học sinh tự sửa các lỗi.
Hình thức này, tôi thường áp dụng với những học sinh mũi nhọn của đội tuyển ở nhà trường trong suốt quá trình học và áp dụng cho toàn đội trong thời gian tập huấn thi vòng Quóc gia.
- Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh đọc và chữa bài cho nhau.
- Giáo viên cùng học sinh chọn đọc mẫu những đoạn văn hay: Cách mở bài và kết bài hay; những đoạn văn viết sáng tạo; những đoạn văn có cách liên hệ vận dụng kiến thức linh hoạt; những đoạn ý được tổ chức mạch lạc.
Đối với học sinh đội tuyển Quốc gia, việc làm rất có ý nghĩa là sau khi chấm bài phải yêu cầu các em chữa bài nghiêm túc. Nếu là lỗi về tổ chức ý, khai thác ý hay diễn đạt thì phải yêu cầu học sinh viết lại từng phần thậm chí cả bài. Viết lại không chỉ một bài mà đến hai ba lần cho một bài.
Tất cả những khâu trong quá trình giảng dạy và bồi dường học sinh giỏi đều có vị trí và tầm quan trọng riêng trong việc bồi dưỡng năng lực của học sinh giỏi. Tuy nhiên, chúng ta thấy rõ những kiến thức học sinh được trang bị, sự say mê tự học của học sinh,... chỉ có thể được đánh giá khách quan qua chất lượng bài làm văn của các em. Kĩ năng làm văn không chỉ giúp các em vượt qua các kì thi (tốt nghiệp, đại học, học sinh giỏi) để tự khẳng định trình độ của mình mà còn tạo những tiền đề thuận lợi để các em tiếp tục học tập hiệu quả ở các bậc cao hơn và tự tin hơn khi bước vào cuộc sống. 
III. Hiệu quả
Kinh nghiệm và những biện pháp trên đã được tôi áp dụng trong các đợt bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi Ngữ văn thi vòng Quốc gia từ năm học 2007-2008. Từ khi áp dụng những biện pháp trên kết quả bồi dưỡng đội tuyển học giỏi môn Ngữ văn đã có những chuyển biến tích cực và kết quả rất khả quan. Số học sinh đạt giải tăng lên và có học sinh đạt giải cao.
Số liệu cụ thể:
Năm học 2007 - 2008 có 2 học sinh đạt giải (01 giải Ba, 01 khuyến khích)
Năm học 2008 - 2009 có 3 học sinh đạt giải (01 giải Ba, 02 khuyến khích) 
Năm học 2009 - 2010 có 3 học sinh đạt giải (02 giải Ba, 01 khuyến khích)
Trên đây chỉ là kinh nghiệm của bản thân về việc bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn thi vòng Quốc gia trong một phạm vi hẹp. Có thể những điều này không là những mới mẻ với các đồng nghiệp có bề dày kinh nghiệm và độ dài thời gian bồi dưỡng học sinh giỏi, nhưng với tôi đó là một trong những điều tâm đắc sau một thời gian hơn 10 năm làm công tác này. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của đồng nghiệp. 

Tài liệu đính kèm:

  • docOn thi HSG Van lop 9.doc