PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Hiện nay việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới lạ, cập nhật vơí cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em, các em chủ động học tập hơn trước nhiều. Nhiều hình thức học tập ngoài giờ chính khoá đã được tổ chức, giáo viên đã quen dần với lối dạy theo nguyên tắc tích cực, đã có nhiều sáng kiến trong việc phát huy tính tích cực trong mọi khâu của hoạt động dạy học. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của phương châm tích hợp trong quá trình ứng dụng đó là: “Một cách - đọc – hiểu văn bản-trong bài học ngữ văn 8”.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua những năm thực hiện chương trình thay sách và đổi mới phương pháp daỵ học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng, tôi đã được dự nhiều giờ, song điều tôi còn băn khoăn là một số thầy cô vẫn thuyết trình nhiều, việc cung cấp kiến thức đôi khi còn mang tính chất áp đặt, đặc biệt ở khâu “đọc – hiểu văn bản”. Tôi thiết nghĩ có nhiều cách để phát huy tính tích cực của học sinh như thực hiện thật tốt, thật sáng tạo nguyên tắc tích hợp vì theo giáo sư Nguyễn Khắc Phi khẳng định “ xét về bản chất của việc vận dụng triệt để nguyên tắc ấy không cho phép dạy học theo kiểu máy móc rập khuôn, nhồi sọ mà luôn luôn đòi hỏi sự năng động, sự vận dụng linh hoạt sáng tạo của người thầy”.
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài: Hiện nay việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới lạ, cập nhật vơí cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em, các em chủ động học tập hơn trước nhiều. Nhiều hình thức học tập ngoài giờ chính khoá đã được tổ chức, giáo viên đã quen dần với lối dạy theo nguyên tắc tích cực, đã có nhiều sáng kiến trong việc phát huy tính tích cực trong mọi khâu của hoạt động dạy học. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của phương châm tích hợp trong quá trình ứng dụng đó là: “Một cách - đọc – hiểu văn bản-trong bài học ngữ văn 8”. 2. Mục đích nghiên cứu Qua những năm thực hiện chương trình thay sách và đổi mới phương pháp daỵ học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng, tôi đã được dự nhiều giờ, song điều tôi còn băn khoăn là một số thầy cô vẫn thuyết trình nhiều, việc cung cấp kiến thức đôi khi còn mang tính chất áp đặt, đặc biệt ở khâu “đọc – hiểu văn bản”. Tôi thiết nghĩ có nhiều cách để phát huy tính tích cực của học sinh như thực hiện thật tốt, thật sáng tạo nguyên tắc tích hợp vì theo giáo sư Nguyễn Khắc Phi khẳng định “ xét về bản chất của việc vận dụng triệt để nguyên tắc ấy không cho phép dạy học theo kiểu máy móc rập khuôn, nhồi sọ mà luôn luôn đòi hỏi sự năng động, sự vận dụng linh hoạt sáng tạo của người thầy”. 3. Đối tượng nghiên cứu. Bao gồm 44/44 Học sinh lớp 8 trường THCS Châu Quế Thượng. 4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu trong tài liệu Ngữ văn 8 tập 1 nhà xuất bản Giáo dục. 5. Nhiệm vụ của nghiên cứu. Tìm ra những biện pháp hay giúp học sinh tốt nhất đọc hiểu được văn bản thành thạo và khai thác được nội dung bài đọc không cần sự hướng dẫn của giáo viên. 6. Phương pháp nghiên cứu. - Nghiên cứu dựa vào đối tượng học sinh là chủ yếu. Phương pháp tổng hợp chung. 7. Thời gian nghiên cứu. Qua 3 tháng giảng dạy ít nhiều tôi đã nắm được tình hình học tập của các em nhất là khâu đọc hiểu văn bản ngay từ bước đầu tôi đã nghiên cứu và thực nghiệm từ ngày 15/8 -> 15/11. Phần thứ hai: nội dung Chương I: Cơ sở lý lận của đề tài Phải nói rằng, lứa tuổi học sinh THCS đặc điểm tâm sinh lý hết sức điển hình. Đây là thời kỳ quá độ chuyển từ giai đoạn trẻ em sang người lớn. Trong giai đoạn này hứng thú của các em đã phát triển ở mức độ cao, hứng thú về học tập đã phát triển và ngày càng đậm nét. Đây là một đặc điểm hết sức thuận lợi đối với việc giảng dạy bộ môn Văn. Việc tò mò thích thú môn văn không phải là khoảng cách xa đối với các em. Bên cạnh đó ý thức tư lập và khả năng đào sâu khám phá những nét đẹp trong cuộc sống là một ưu điểm điển hình của học sinh bậc THCS. Song song với những ưu điểm trên, một số em còn rụt rè e ngại, đôi lúc còn nản chí, nản lòng khi tiếp cận với một văn bản khó. Vậy làm thế nào để khắc phục khó khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ Văn thật sự có hiệu quả để thu hút học sinh say mê học tập? Như chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học rất gần gũi với mọi người. Những bài thơ hay, những văn bản hấp dẫn đã giúp cho giờ văn không chỉ là giờ học mà còn là những giờ giải trí, khám phá biết bao điều kỳ diệu của cuộc sống con người. Để có giờ văn như thế thì khâu “đọc – hiểu văn bản” là rất quan trọng đòi hỏi người thầy chủ động, sáng tạo và linh hoạt khi thiết kế bàI giảng. Chương II: Thực trạng của đề tài Như chúng ta đã biết “văn học là nhân học”, “văn học là nghệ thuật của ngôn từ”. Chính vì vậy việc học văn không phải là đơn giản, hơn nữa trong thời đại hiện nay, môn ngữ văn không còn là “điểm đến” hấp dẫn với các em học sinh như các môn Toán, Lý, Hoá, Anh mặc dù đó là một trong 2 môn chính chiếm số lượng tiết không nhỏ. Có nhiều học sinh rất ngại học môn Văn bởi lý do là Văn viết dài, khó học, khó thuộc. Có những tác phẩm tự sự dài học sinh lười không đọc hết dẫn tời tình trạng mơ màng về nội dung, cốt truyện, nhân vật. Có những bài thơ khi học xong học sinh không nắm được những nghệ thuật tiêu biểu, nội dung của bài thơ. Những lý do trên khiến tâm lý học sinh ngại và chán học môn Văn. Vậy làm thế nào để khắc phục khó khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ Văn thật sự có hiệu quả để thu hút học sinh say mê học tập? Như chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học rất gần gũi với mọi người. Những bài thơ hay, những văn bản hấp dẫn đã giúp cho giờ văn không chỉ là giờ học mà còn là những giờ giải trí, khám phá biết bao điều kỳ diệu của cuộc sống con người. Để có giờ văn như thế thì khâu “đọc – hiểu văn bản” là rất quan trọng đòi hỏi người thầy chủ động, sáng tạo và linh hoạt khi thiết kế bàI giảng. Chương III: giảI quyết vấn đề Như chúng ta đã biết, trong ba phân môn của ngữ văn thì tác phẩm văn học chiếm vị trí quan trọng. Trong sách giáo khoa phần Văn học được biểu hiện bằng các văn bản. Khi học tập học sinh phải “đọc – hiểu văn bản”. Vậy “đọc - hiểu văn bản” là gì? Khái niệm “đọc - hiểu văn bản” không diến tả hành động tách rời đọc và hiểu. “Đọc - hiểu văn bản” là hoạt động đọc văn một cách nghiêm túc có nghiền ngẫm, cảm xúc, tưởng tưởng và liên tưởng. Bản chất đọc – hiểu là tìm hiểu phân tích để chiếm lĩnh văn bản bằng nhiều phương pháp và hình thức dạy học văn, trong đó phương pháp dạy học văn bằng hệ thống câu hỏi cảm thụ văn bản được thực hiện dưới hình thức đối thoại sẽ là hình thức và phương pháp chủ đạo. Các tác giả trong Ngữ Văn 6 tập một sách giáo viên đã lý giảI như sau “ khả năng đọc – hiểu (bao gồm cả cảm thụ) một tác phẩm văn chương lệ thuộc không ít vào việc có thể trả lời được hay không những câu hỏi đặt ra ở những cấp độ khác nhau. Mức thấp nhất là chỉ cần sử dụng những thông tin có ngay trong văn bản. Đó là trường hợp câu trả lời sẵn có trong bài chỉ mới biết đọc trên dòng. Mức cao hơn là buộc phải suy nghĩ và sử dụng những thông tin trong bài. Đó là trường hợp phải suy nghĩ ra câu trả lời, là trình độ đã biết đọc giữa dòng. Cao hơn là yêu cầu khái quát, liên hệ giữa những cái mà học sinh đã đọc với thế giới bên ngoài đó là trình độ vượt ra khỏi dòng để đọc văn bản. Khám phá văn bản theo hướng ấy thì học sinh khôn chỉ hứng thú hiểu sâu văn bản mà còn liên hệ được một cách sinh động tự nhiên với những vấn đề trong cuộc sống. Như vậy “đọc - hiểu văn bản” đòi hỏi người phải có thái độ chủ động tích cực và sáng tạo trong đọc văn. Các văn bản được học trong chương trình Ngữ Văn 8 bao gồm: 1.Một số truyện Việt Nam 1930 – 1945 - Tôi đi học (Thanh Tịnh) - Trong lòng mẹ (trích “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng) 2.Một số truyện nước ngoài - Cô bé bán diêm (An - đéc – xen) - Đánh nhau với cối xay gió (trích “Đôn-ki-hô tê” – Xéc-van-téc) - Chiếc lá cuối cùng (OHen-ri) Hai cây phong (Ai-man-tốp) 3.Một số văn bản thơ trữ tình giàu yếu tố biểu cảm. - Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông (Phan Bội Châu) - Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu trinh) - Muốn làm thằng cuội (Tản Đà) - Ông Đồ (Vũ Đình Liên) - Hai chữ nước nhà (á Nam Trần Tuấn Khải) - Nhớ rừng (Thế Lữ) - Quê hương (Tế Hanh) - Khi con tú hú (Tố Hữu) - Tức cảnh Pác Bó, ngắm trăng (Hồ Chí Minh) 4. Một số tác phẩm nghị luận - Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn) - Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn) - Nước Đại Việt (Nguyễn Trãi) - Bàn luận về phép học (Nguyễn Thiếp) - Thuế máu (Hồ Chí Minh) - Đi bộ ngao du 5.Một số đoạn trích kịch: Ông Guốc-danh mặc lễ phục 6.Một số văn bản nhật dụng: Thông tin về trái đất năm 2000. Ôn dịch thuốc lá, giáo dục chìa khoá trong tương lai. Với các loại văn bản trên, kỹ năng “đọc - hiểu văn bản” cần đạt tới mức độ sau: 1.Biết đọc thầm, đọc thành tiếng có diễn cảm. 2. Biết chọn đọc hững đoạn văn bản có minh họa cho các nhiệm vụ học tập một cách chính xác, tốc độ vừa phải, đúng với nội dung văn bản. 3. Biết đọc nhanh các đoạn văn bản, ngữ liệu có những cách dùng từ ngữ và cấu trúc câu phức tạp với năng lực phán đoán ngôn ngữ nhanh nhạy. 4. Biết đặt câu hỏi cho mình hoặc cho người khác để hiểu mục đích văn bản và các yêu cầu của nội dung học tập. 5. Biết tóm tắt, chia đoạn, xác định chủ đề, mối liên hệ giữa các phần trong văn bản và biết đặt tên cho đoạn văn 6. Biết nhận ra các câu văn, đoạn văn hay, có nội dung sâu sắc và hiểu được nghĩa, vai trò và tác dụng của cac từ ngữ, câu then chốt, các biện pháp nghệ thuạt trong đoạn văn đó. 7. Nhớ chính xác một số câu, đoạn và văn bản hay, thơ hay biết bình giá chi tiết nghệ thuật trong các văn bản. 8. Đọc và hiểu được các phương thức biểu đạt khác nhau và đặc điểm thể loại, thái độ, tình cảm và tư tưởng của tác giả. 9. Xác định được các hệ thống luận điểm và tuyến lập luận trong các văn bản qua việc tổng kết các tác phẩm tự sự, trữ tình, nghị luận, nhật dụng và sự kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh trong một số tác phẩm qua việc hệ thống hoá các khái niệm: Loại, thể loại, đặc điểm của truyện ngắn, tiểu thuyết và thể hiện đại. Như vậy "Đọc - Hiểu văn bản" đã thực hiện phương châm tích hợp. HS vận dụng được kỹ năng, hiểu bíêt về một phân môn này vào việc học tập phân môn khác. Trong thực tế, rất hiếm những văn bản chỉ dùng một phương thức biểu đạt mà một trong những trọng tâm của phần tập làm văn là dạy cho học sinh biết phân tích, biết thực hiện sự kết hợp các phương thức ấy. Chính điều đó đã tạo ra một trường tích hợp vô cùng rộng lớn. Các câu hướng dẫn "Đọc - Hiểu văn bản" trong SGK đã tạo ra cơ chế cho sự tích hợp ấy. Điều quan trọng là giáo viên cần thực sự năng động, biết vận dụng linh hoạt và khi cần vẫn có thể tạo ra những tình huống tích hợp mới. Việc đọc hiểu, phân tích, bình giá các loại văn bản sẽ giúp HS có điều kiện tốt hơn các nội dung làm văn tự sự, thuyết minh và nghị luận. Hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" giúp HS qua việc đọc đúng sẽ cảm nhận và hiểu đúng những thông tin, hiển ngôn và hàm ngôn trong văn bản. Nếu quan niệm văn bản là sự tổng hợp của 3 cấu trúc: Cấu trúc ngôn ngữ, cấu trúc hình tượng và cấu trúc ý nghĩa thì đối với HS lớp 8 thực hiện tốt hoạt động "Đọc - Hiểu văn bản" có nghĩa là HS phải nắm và lý giải được mối liên hệ của 3 lớp cấu trúc này không chỉ trên phương diện của từ ngữ, câu chữ, nhịp điệu mà còn hiểu được giá trị iểu đạt và biểu cảm của ngôn từ như là phương tiên để thể hiện hình tượng nghệ thuật, hiểu được những quan điểm, tư tưởng về con người, về thời đại, về ý tưởng giáo dục của tác giả gửi gắm trong văn bản Đối với một số tryện nước ngoài trong SGK ngữ văn ... ội dung- nghệ thuật của VB: “Đôn- ki- hô- tê” 3. Giớii thiệu bài: 4. Bài mới: Hoạt động của thầy và trò Nội dung bài học GV hướng dẫn đọc: phân biệt lời kể của tác giả với những câu, đoạn trong dấu ngoặc kép... GV đọc phần tóm tắt VB (SGK- 84) - > Gọi HS đọc tiếp ?Giới thiệu vài nét về tác giả? Tên thật: Uy-li-am Xit-ni Po- tơ. Cha ông là thầy thuốc. Ông sớm mồ côi cha mẹ, phải tự lực kiếm sống bằng các nghề: dược sĩ, kế toán nhân hàng... ông sáng tác các tập truyện ngắn: Bắp cải và vua chúa, Bốn triệu, Trung tâm miền Tây - Truyện ngắn của ông nổi tiếng với những cốt truyện độc đáo có cách kết thúc bất ngờ cùng đảo ngược tình huống hai lần ?Giới thiệu về xuất xứ của tác phẩm? Yêu cầu HS giải thích: Kiệt tác, bộ? ?VB có thể chia làm mấy phần? có thể không chia đoạn vì câu truyện liền mạch theo dòng thời gian và tiếp nối sự việc ?Hãy tóm tắt nội dung đoạn trích? Giôn –xi ốm nặng và nằm đợi chiếc lá cuối cùng của cây thường xuân rụng xuống, khi đó cô sẽ chết. Nhưng qua một buổi sáng và một đêm mưa gió phũ phàng, chiếc lá cuối cùng vẫn không rụng. Điều đó khiến Giôn- xi thoát khỏi ý nghĩ về cái chết. Rồi Xiu cho Giôn- xi rằng chiếc lá cuối cùng chính là bức tranh của cụ Bơ- men, cụ đã bí mật vẽ trong một đêm mưa rét để cưu Giôn- xi. Sau đó, chính cụ đã bị chết vì viêm phổi. ?Truyện có mấy nhân vật, quan hệ của họ ntn? ?Giới thiệu vài nét về xuất thân và tình trạng sức khoẻ của Giôn- xi? Tình trạng ấy khiến cô có tâm trạng ntn? ?Giôn- xi có những suy nghĩ và hành động ntn? GV.(Lần hai kéo rèm, vào sáng hôm sau cả Giôn- xi và người đọc đều không còn hy vọng chiếc lá còn trên cây. Thế nhưng chiếc lá vẫn cố bám trên bức tường gạch. Chiếc lá cuối cùng ấy đã làm thay đổi ý định muốn chết của Giôn- xi.) ?Vì sao Giôn- xi thay đổi thái độ? Suy nghĩ: “Có một cái gì đó...nấu nướng” ?Hôm sau, bác sĩ khám đã cho biết điều gì? ?Nguyên nhân nào làm cho Giôn- xi khỏi bệnh? (- Nhờ sự bám trụ kiên cường của chiếc lá) I. Giới thiệu chung * Đọc-Túm tắt văn bản. 1. Tác giả- Tác phẩm * Tác giả(1862- 1910) - Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn đầu thế kỉ XX của Mĩ. * Tác phẩm - VB là phần cuối của truyện ngắn: “Chiếc lá cuối cùng” 2. Chú thích 3. Bố cục - Đoạn 1: Từ đầu...tảng đá -> Cụ Bơ- men và Xiu lên gác thăm Giôn –xi - Đoạn 2: Tiếp...thế thôi -> hai ngày trôi qua chiếc lá cuối cùng vẫn chưa rụng. Giôn- xi đã qua cơn nguy hiểm - Đoạn 3: còn lại -> Xiu kể cho Giôn- xi về cái chết của cụ Bơ- men II. Tìm hiểu văn bản * Tóm tắt 1. Diễn biến tâm trạng của Giôn- xi - Là một hoạ sĩ trẻ, nghèo - Đang bị sưng phổi nặng -> chán nản, mệt mỏi, tuyệt vọng - Suy nghĩ: Khi nào chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống thì cô sẽ chết - Hai lần yêu cầu kéo mành: + Lần đầu, thấy trên cây chỉ còn một chiếc lá cuối cùng- > tuyệt vọng, chờ đợi cái chết đến với mình + Lần hai, thấy chiếc lá vẫn còn đó ->cảm nhận được sức sống mãnh liệt, bền bỉ của chiếc và nhu cầu sống trở lại trong cô => Vượt qua được cái chết D. Củng cố dặn dũ và hướng dẫn về nhà 1. Củng cố - Nắm được bố cục của VB - Nắm được diễn biến tâm trạng của Giôn- xi 2. Dặn dũ huớng dẫn về nhà - Tiếp tục hoàn thành bài soạn - Tập phân tích diễn biến tâm trạng của Giôn- xi. * Rỳt kinh nghiệm: .. Ngày soạn:10/10/2012 Ngày dạy:13/10/2012 Tiết 30 Văn bản Chiếc lá cuối cùng (Trích) - O- Hen- ri - I. Mục tiêu cần đạt: Học sinh: Khám phá vài nét cơ bản nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn Mĩ O. Hen –ri, rung động trước cái hay, cái đẹp và lòng cảm thông của tác giả đối với những nỗi bất hạnh của người nghèo. II. Chuẩn bị - Giáo viên: Soạn bài - Học sinh: Soạn bài III. Tiến trình dạy học: 1. Tổ chức: 2. Kiểm tra bài cũ: Phân tích diễn biến tâm tạng của Giôn- xi trong VB: “Chiếc lá cuối cùng” 3. Giới thiệu bài: 4.Bài mới: Hoạt động của thầy và trò Nội dung bài học ?Hãy cho biết thái độ của Xiu trong những lần nhìn dây thường xuân bên cửa sổ? ?Xiu có biết ý định vẽ chiếc lá cuối cùng của cụ Bơ- men hay không? Nếu Xiu biết trước câu chuyện sẽ ntn? (Không hề biết, bằng chứng là khi Giôn- xi bảo kéo mành lên, cô làm theo một cách chán nản, sau đó cô còn cúi khuôn mặt hốc hác của mình xuống Giôn- xi và nói những lời não nột. Nếu để cô biết trước biết thì sức hấp dẫn của truyện sẽ không còn nữa và người đọc sẽ không được chứng kiến sự lo lắng của cô đối với Giôn- xi) ?Vậy Xiu biết sự thật vào lúc nào? Sau đó cô đã làm gì? Việc làm đó có ý nghĩa ntn? ?Xiu là người ntn? ?Giới thiệu vài nét về cụ Bơ- men? (Đã ngoài 60 tuổi, râu xồm. Cụ mơ ước vẽ được một kiệt tác nhưng hơn 40 năm nay chưa thục hiện được. ) ?Trước tình trạng bệnh tật của Giôn- xi cụ có thái độ ntn? ?Tình yêu thương đó đã được thể hiện bằng hành động cụ thể nào? Ông đã phải trả giá cho búc vẽ đó ntn? (Sau đó cụ đã chết vì viêm phổi) ? Trong đoạn trớch này tỏc giả sử dụng nghệ thuật gỡ (Sống trở thành chết chết thỡ thành sống) Qua đây ta thấy cụ Bơ- men là người ntn? ?Vì sao có thể nói chiếc lá cuối cùng là một kiệt tác? ? Hay tổng kết về nội dung nghệ thuật của văn bản? Nghĩ và thử viết cho truyện một kết thúc khác. 2. Nhân vật Xiu - Lo sợ khi nhìn chiếc lá thường xuân ít ỏi còn bám lại trên tường. - Lo sợ mình sẽ ra sao nếu không còn Giôn- xi. - Hết lòng chăm sóc, động viên Giôn- xi - Kể cho Giôn- xi nghe về cái chết của cụ Bơ- men để nhắc nhở Giôn- xi về giá trị cuộc sống của mình. => Là người bạn tốt, hết lòng chăm lo, quan tâm đến bạn 3. Cụ Bơ- men và kiệt tác: “Chiếc lá cuối cùng” - Là một hoạ sĩ già, thường ngồi làm mẫu vẽ cho các hoạ sĩ trẻ. - Mơ ước vẽ được một kiệt tác -> Yêu thương, lo lắng cho số mệnh của Giôn- xi. - Lặng lẽ vẽ chiếc lá cuối cùng trong đêm mưa gió. Sau đó cụ đã chết vì viêm phổi => NT: Đảo ngược tình huống => Là người cao thượng quên mình vì người khác * Chiếc lá cuối cùng là một kiệt tác, vì: - Giống y như thật(cuống lá màu xanh xẫm, rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa) - Mang lại sự sống cho Giôn- xi - Chiếc lá không chỉ được vẽ bằng màu, bằng bút mà được vẽ bằng cả tình thương bao la và lòng hy sinh cao thượng. III. Tổng kết và luyện tập 1. Tổng kết * Nội dung: - Ca ngơi tình yêu thương cao cả giữa những con người nghèo khổ. - Sức mạnh của nghị lực và tình yêu cuộc sống giúp c on người chiến thắng bệnh tật. - Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì tình yêu thương và sự sống của con người. * Nghệ thuật: - Đảo ngược tình huống hai lần: + Giôn- xi từ cõi chết trở về với sự sống + Cụ Bơ- men đang khoẻ mạnh bỗng qua đời. 2. Luyện tập IV. Củng cố và hướng dẫn về nhà: 1. Củng cố - Nắm được tình cảm của Xiu và cụ Bơ- men đối với Giôn- xi - Nắm được giá trị của “Chiếc lá cuối cùng” 2. Huớng dẫn về nhà - Học thuộc phần tổng kết - Soạn VB: “Hai cây phong” * Rủt kinh nghiệm: .. PUầN Iii. Kết luận và kiến nghị. Những vấn đề ngỏ. Trong thực tế giảng dạy môn môn Ngữ văn 8, đặc biệt là việc rèn luyện fđọc cho học sinh, tôI thấy còn có những hạn chế sau: Về trò: Một số em còn ngọng phát âm chưa chuẩn l/n, tr/ch, thanh ngã/ thanh sắc. Về thầy; Còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ sư phạm, đặc biệt là việc đọc mẫu, do vậy bản thân tôI cần phảI học hỏi, rèn luyện nhiềi. 2. Những vấn đề cần kiến nghị; Để co kết quả rèn đọc diễn cảm cho học sinh tốt hơn, tôI mạn phép đề xuất một vài ý kiến với các cấp chỉ đạo như sau; thường xuyên dự giờ thăm lớp của giáo viên để nắm vững phương pháp giảng dạy, từ đó có khắc phục kịp thời những tồn tại để thống nhất phương pháp giảng dạy đặc biệt là phương pháp rèn đọc diễn cảm. KhơI dậy phong trào thi đua ngâm thơ, kể chuyện, đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên, trong khối , trong trường. Thươgng xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụcho giáo viên ở các môn học nhất là môn Ngữ văn. đề nghị các cấp chấm SKKN nên phổ biến những kinh nghiệm giảng dạy có chất lượng để giáo viên học tập kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp. Sau mỗi đợt thi giáo viên giỏi chúng tôI rất mong ban chỉ đạo hội thi có những thống nhất một cách cụ thể chi tiết về phương pháp giảng dạy các phân môn. Tổ chức thường xuyên hội thi đọc hay với giáo viên và học sinh để tăng cường ý thức luyện đọc hay ở từng giáo viên và học sinh KếT LUậN: Việc đọc-hiểu văn bản’’ với biện pháp dạy học bằng hệ thống câu hỏi cảm thụ văn bản được thực hiện dưới hình thức đối thoại để đem lại những kết quả tương đối khả quan .Học sinh đã biết chọn đọc những đoạn văn bản minh hoạ cho các nhiện vụ học tập mọt các chính xác Học sinh có năng lực phán đoán nhanh nhạy nhưng ngữ liệu ngôn ngữ hiểu được mục đích của các văn bản .đạc biệt các em đã biết liên hệ giữa những điều có trong văn bản với thế giới bên ngoài .Trong những lời phát biểu những bài kiểm tra các em đã thực sự hiểu và vận dụng tác phẩm một cách linh hoạt VBài học rút ra Để giờ học có hiệu quả trước hết người giáo viên phải nắm chắc các phương pháp’’Đọc –hiểu văn bản’’ Nghiên cứu , Nghị quyết Trung ương đã nhiều lần khẳng định “Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc họcáp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.” Qua việc học tập và nghiên cứu tôi đã nhận thấy việc đổi mới chương trình giáo dục hiện nay không chỉ là việc đổi mới chương trình sách giáo khoa mà thực sự là một cuộc cách mạng về phương pháp dạy học. Trong nhà trường hiện nay, mục tiêu giáo dục tổng quát đã được xác định tương đối phù hợp với sự phát triển của thời đại nhằm đào tạo những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết mọi vấn đề thực tiễnMuốn đào tạo được những con người như vậy thì phương pháp giáo dục phải hướng vào khơi dậy, rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, sáng tạo ngay trong học tập và lao động ở nhà trường. Bên cạnh đó , theo quan điểm giáo dục hiện nay là lấy người học làm trung tâm, phát huy vai trò chủ động tích cực của học sinh trong quá trình học tậpĐó là những mục tiêu và quan điểm chung trong nhà trường hiên nay. Ngoài những mục tiêu chung của nhà trường phổ thông , bộ môn Ngữ văn ở nhà trường THCS có mục tiêu cụ thể của nó. Môn Ngữ văn trước hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn còn là một môn học thuộc nhóm công cụ, vị trí đó nói lên mối quan hệ giữa môn Ngữ văn với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ có tác động tích cựcđến kết quả học tập của các môn học khácvà ngược lại các môn học khác cũng có thể góp phần giúp học tốt môn Ngữ văn TàI LIệU THAM KHảO Để học tốt Ngữ văn 8. SGK, SGV Ngữ văn 8 tập I MụC LụC STT TÊN Đề MụC TRANG 1 PHẤN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU 1 2 PHÀN THỨ HAI: NỘI DUNG 2 3 GIÁO ÁN MINH HỌA 8 4 PHẦN :III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 13 5 TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
Tài liệu đính kèm: