Một số bài văn mẫu khối 9

Một số bài văn mẫu khối 9

Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống.

Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nòng cốt "biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả"(1) của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi người có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách cá nhân của tác giả.

 

doc 125 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 761Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số bài văn mẫu khối 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong "Chữ người tử tù" và "Hai đứa trẻ"
TS. Hoàng Thị Huế
Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Huế 
Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống.
Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nòng cốt "biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả"(1) của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi người có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách cá nhân của tác giả.
Miệt mài trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử dụng không chỉ như một nguyên tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng về cái đẹp trong cuộc đời. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về một thú chơi tao nhã của người xưa, trong một tình huống đặc biệt mà người viết chữ và người chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm như một kiểu song trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, như ánh sáng và bóng tối, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính vì là đối cực như ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đã hàm chứa một sự tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như một quy luật tất yếu. 
“Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, một “nghệ thuật thể hiện chữ viết và là phương tiện để biểu lộ tâm thức của con người... Thư pháp gắn với tính cách, tâm tư, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của người viết”(2). Từ nét chữ, người ta có thể đọc được tính tình, nhân cách, khí phách người viết, nó thể hiện thế giới nội tâm của người viết chữ. Vì vậy người xưa coi việc chơi chữ như một cách di dưỡng tính tình, hun đúc tinh thần. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu nhân cách, khí phách, tài hoa của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ thế giới nội tâm của con người này. 
Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên không gian nhà tù - một "trại giam tối om", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, "quạnh quẽ" và "tối mịt", tất cả đều nhuốm vẻ âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìn giữ, nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại như khắc họa rõ hơn số phận những con người quanh năm trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi nhân sinh mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa bóng tối mịt mù và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một "ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ". Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân đối ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù le lói nhưng không bao giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như niềm tin của con người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đó là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang tồn tại ở một nơi mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối. 
Trong thế giới tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng cô độc trong thế giới riêng của mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ huyền bí cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút... Những sợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là "đang băn khoăn ngồi bóp thái dương", với một ngoại hình mòn mỏi, cô đơn "tóc hoa râm, râu đã ngả màu"(3). Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là một đời sống tâm hồn như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ(4). Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tạo lập bối cảnh và không khí để xây dựng tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong một không gian nền đầy bóng tối - nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa hai thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến thắng, dẫn đến một thái độ ứng xử đẹp. 
Cuộc gặp gỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng lại hòa hợp vô cùng ở kết thúc của truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, khinh thế ngạo vật bao nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ phép, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự tác động của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một nhân cách, vì quý trọng một tài năng, xót xa một báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng lên từ hai phía đối lập của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ ứng xử, hai mặt của cuộc sống. Chính công việc, môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày là công cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa một nỗi cô đơn không kẻ tỏ bày, không người tri âm tri kỷ. Một con người mà mới thoạt trông bên ngoài tưởng như là một khối bóng tối khổng lồ nhưng rồi cái tài hoa của Nguyễn Tuân là đã biết chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi nhất để chút ánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có cơ hội bừng sáng lên. Không những thế tác giả còn dựng tình huống cho phút giây bừng sáng đó thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết - ở sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, trong "cảnh cho chữ", “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có".
Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi cốt truyện". Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong cách riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam. 
Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và bóng tối được tác giả sử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong các chi tiết nhỏ nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm.
Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian nghệ thuật đặc trưng xuất hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đan xen giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm ả như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời"(5). Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số phận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời điểm khác nhau: lúc hoàng hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lét trên chõng hàng chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật vờ không số phận, không tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối đến họ tập trung ở đây như để bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng là để hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời buồn tẻ, quẩn quanh, tù hãm của cái "ao đời bằng phẳng" hàng ngày họ nếm trải. 
Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc đáo, gây nhiều ám ảnh. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian phố huyện ngập tràn bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm, không khí buồn lặng của khung cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu khi chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụ bao la như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi buồn không còn nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội, một thứ "siêu cảm giác" bởi cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác với thời hiện tại Liên đang sống - "một vùng sáng rực và lấp lánh"(6). 
Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ khi đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều đến đêm khuya mới thấy rõ giá trị của nó, thấy được độ "khát thèm được chiếu sáng và được đổi thay"(7) của hai đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng của tác phẩm vì vậy được nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một trong những truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam.
Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa tượng trưng. Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, sang trọng đã ổn định và có giá trị như một bảo vật văn hóa của dân tộc, như một kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp, một nhân cách đẹp... Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên tác phẩm cũng được kết thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với cái xấu cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u - là nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. 
Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa  ... đâu đấy tỏ" (Chí khí anh hùng). 
Ở Nguyễn Công Trứ chí nam nhi, chí anh hùng gắn với chữ danh: "Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông" (Đi thi tự vịnh), "Không công danh thời nát với cỏ cây". Điều cần nói là ở đây, chữ "danh" gắn liền với chữ "thân", với chữ "công", "Nhập thế cục bất khả vô công nghiệp/ Xuất mẫu hoài tiện thi hữu quân thân/ Mà chữ danh liền với chữ thân/ Thân đã có ắt danh âu phải có" (Nghĩa người đời). Với ông, "danh" không đi liền với "lợi". Bởi "Ra trường danh lợi vinh liền nhục" (Tình cảnh làm quan), "Lợi danh đường nhục cũng nên kinh" (Vui cảnh nghèo). Tốt nhất là phải xa lợi danh, danh lợi: "Chẳng lợi danh chi lại hoá hay" (Tự thuật), mặc cho người đời vẫn bám lấy lợi danh: "Thuỳ năng thế thượng vong danh lợi/ Tiên thị nhân gian nhất hoá công" (Ở đời ai mà quên được danh lợi. Ấy bởi ông trời sinh ra loài người là thế - Quân tử cố cùng). Quả là ở Nguyễn Công Trứ, chữ "danh" có nội hàm riêng và tầm vóc riêng gắn với núi sông, với đất trời, với "công nghiệp" - với sự cống hiến, với sự lên ngôi của cái Tôi - cá thể Nguyễn Công Trứ.
Ở Nguyễn Công Trứ, còn một điều đáng nói lại bởi nó cũng là điều hiếm. Đó là ý thức "cậy tài", "khoe tài", "Trời đất cho ta một cái tài/ Giắt lưng dành để tháng ngày chơi" (Cầm kỳ thi tửu), "Lúc tuổi xanh chi khỏi cậy tài" (Con tạo ghét ghen). Tài là một giá trị nhân bản cao quý và hiếm. Nhưng thái độ người xưa đối với chữ "tài"cũng thành vấn đề. Thường là có hiện tượng dấu tài vì sợ nói ra bị cho là kiêu ngạo, tự cao, tự đại. Ngay với Nguyễn Du thì chữ "tài" vẫn đặt thấp dưới chữ "tâm": "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" và sợ cho chuyện tài mệnh tương đố: "Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau", "Có tài mà cộng chi tài/ Tài tình chi lắm cho trời đất ghen". Với Nguyễn Công Trứ thì khác. Có tài cứ "khoe tài", "cậy tài" để thêm tự tin, thêm quyết tâm vươn tới trong hành động vì mình và cũng vì cuộc đời. Cho nên Nguyễn Công Trứ đã không dấu tài, đã không sợ trời đất ghen tài mà còn gắn tài với tình và dõng dạc tuyên bố: "Thế nhân mạc oán tài tình luỵ/ Không tài tình quang cảnh có ra chi" (Tài tình), "Càng tài tử càng nhiều tình ái" (Vịnh sầu tình). Đúng là dưới chế độ phong kiến Việt Nam xưa, và không khéo cả với thời nay, không ai cậy tài, khoe tay và ngây ngất với tài tình như Nguyễn Công Trứ. 
Với Nguyễn Công Trứ, riêng chữ "tình" cũng thành một khoản phong phú, phì nhiêu hiếm có mà bản chất chính là sống theo quy luật tự nhiên mà tạo hoá đã ban cho loài người. Ông định nghĩa, giới thuyết chữ tình: "Cái tình là cái chi chi/ Dẫu chi chi cũng chi chi với tình/ Đa tình là dở/ Đã mắc vào đố gỡ cho ra... Càng tài tình càng ngốc càng si/ Cái tình là cái chi chi" (Vịnh chữ tình). Ông đùa với tình: "Tao ở nhà tao tao nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói răng không đến/ Đến thì mi nói đến làm chi/ Làm chi tao đã làm chi được/ Làm được thì tao đã làm đi..." (Bỡn tình nhân). Ông cũng có phen phải sầu tình "Sầu ai lấp cả vòng trời/ Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung/ Xuân sầu mang mang tắc thiên địa/ Giống ở đâu vô ảnh vô hình/ Cứ tò mò quanh quẩn bên mình/ Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng" (Vịnh sầu tình). Nguyễn Công Trứ là con người hành động, chăm lo phận sự, nhưng đồng thời không quên chữ nhàn mà gần ba thế kỷ trước Nguyễn Bình Khiêm đã hăng hái đề xướng. Nay đến ông lại muốn nâng cấp lên tầm triết lý: "Thị tại môn tiền náo/ Nguyệt tại môn hạ nhàn/ So lao tâm lao lực một đàn/ Người nhân thế muốn nhàn sao được/ Nên phải giữ lấy nhàn làm chước/ Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thị nhàn chữ nhàn là chữ làm sao" (Chữ nhàn), "Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu/ Trầm tư bách kế bất như nhàn" (Muốn quên sự đời chỉ có rượu/ Suy nghĩ trăm kế không bằng nhàn - Vịnh Nhàn), "Cơn chếnh choáng vần trời đất lại/ Chốc ngâm nga xáo lộn cổ kim đi/ Cái công danh là cái chi chi/ Quý nhân tướng bất như nhàn nhân quý" (Nhàn nhân với quý nhân). Với Nguyễn Công Trứ, hành lạc cũng đã trở thành triết lý cuồng nhiệt. Ông có một bài thơ không biết nhan đề do ông tự đặt hay do đời sau làm sách đặt là "Đánh thức người đời" trong đó có hai câu mà có lẽ đến hôm nay, không ít thuộc lớp người có tuổi hẳn là phải kinh ngạc. Đó là: "Nhân sinh bất hành lạc/ Thiên tuế diệc vi thương" (Người sống ở đời mà không hưởng lạc - Thì có thọ đến nghìn tuổi cũng coi như chết yểu). Quả là Nguyễn Công Trứ đã say sưa với hành lạc chẳng kém gì say sưa với phận sự, với công nghiệp. Bởi với ông, chuyện gì mà chẳng hết mình. Đến nay, nhiều cụ già ở Kim Sơn, Tiền Hải vẫn còn kể chuyện: Nguyễn Công Trứ hồi làm doanh điền sứ, ngày thì xông pha, năng nổ với công việc khẩn hoang, đêm thì chìm đắm trong điệu phách câu ca với các ả đào non xinh đẹp. Rồi chuyện Nguyễn Công Trứ, lúc tuổi đã ngoài bảy mươi, lên chơi chùa Hương Tích trên núi Ngàn Hống gần nhà, vẫn đem theo "một đôi dì", mà chính ông đã ngang nhiên kể lại trong Bài ca ngất ngưởng: "Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì/ Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng"...
Riêng trong văn chương, trước Nguyễn Công Trứ, có lẽ không ai, kể cả Tản Đà về sau, có độ cuồng nhiệt với triết lý hành lạc như ông: "Sách có chữ nhân sinh thích chí/ Đem ngàn vàng chác lấy cuộc cười/ Chơi cho lệch mới là chơi/ Chơi cho đài các cho người biết tay" (Cầm kỳ thi tửu, II), "Nợ tang bồng hẹn khách thiếu niên/ Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phí chí" (Cầm kỳ thi tửu, III), "Lần lựa tiết xuân dương có mấy/ Bóng quang âm chơi lấy kẻo già/ Trăm năm trong cõi người ta/ Xóc sổ tính ngày chơi đã được mấy" (Trong trần mấy mặt làng chơi), "Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy/ Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi bấy/ Nếu không chơi thiệt lấy ai bù/ Nghề chơi cũng lắm công phu" (Chơi xuân kẻo hết xuân đi)...
Với Nguyễn Công Trứ, chơi, hành lạc là đủ thứ: có tình, có cầm, kỳ, thi, tửu đã đành. Còn có thú thiên nhiên với trăng gió, cỏ hoa, với "Liễu tía đào hường mai trắng trắng/ Lan tươi huệ tốt lý xanh xanh/ Thêm hương khi gió lá mưa cành/ Mở mặt thấy giang sơn cười chúm chím... Trân trọng lấy hương trời cho trọn vẹn/ Hoa với khách như đà có hẹn/ Ưa màu nào màu ấy là xinh/ Trăm hoa cùng bẻ một cành" (Yêu hoa). 
Nguyễn Công Trứ với triết lý hành lạc như thế, quả thật là một sự táo bạo, cũng có thể nói là đi trước thời đại. Bởi trong lịch sử tư tưởng Việt Nam xưa mà ảnh hưởng chưa phải đã chấm dứt với nhiều người thời nay thì vấn đề hành lạc vẫn là vấn đề không đơn giản, bởi một khi con người từng được Nho giáo dạy bảo "khắc kỷ phục lễ" (phải thắng mình để tuân theo lễ), từng được Phật giáo khuyến khích diệt dục để diệt khổ. Khác với phương Tây, ngay từ thời cổ đại Hy Lạp, chủ nghĩa hành lạc (épicurisme) của Épicure đã được coi là tiến bộ, là có giá trị nhân văn, không có gì mâu thuẫn với đạo đức. Trong cuộc sống quả đã có hai thứ hành lạc. Một thứ hành lạc nhân văn chân chính. Một thứ hành lạc thú tính, đê hèn. Triết lý hành lạc và nội dung hành lạc của Nguyễn Công Trứ thuộc trường hợp thứ nhất. Chính ông đã nói rõ điều đó: "Tế suy vật lý tu hành lạc/ An dụng phù danh bạn thử thân/ Song bất nhân mà lại chí nhân" (Xét kỹ thì ở đời nên ăn chơi/ Sao nỡ để công danh trói buộc thân mình/ Nói là không nhân đạo nhưng chính là rất nhân đạo - Chơi xuân kẻo hết xuân đi). Ông không từ chối hành lạc đã đành, mà ngược lại còn khuyến khích "tu hành lạc" (nên hành lạc) vì theo ông đó là "chí nhân" (hết sức nhân đạo), nên cần "Đánh thức người đời", bởi họ từ lâu rồi chưa biết hưởng cái hạnh phúc trần gian đó. Dĩ nhiên đây là người đời Việt Nam chứ đâu phải người đời dưới trời Âu. Riêng tôi thì thấy thời gian đã và đang ủng hộ Nguyễn Công Trứ và ở phương diện này, trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam xưa, coi ông là người có tư tưởng hiện đại không phải là không có lý. Tôi còn muốn nói thêm về mối nhân duyên giữa nhà triết lý hành lạc Nguyễn Công Trứ và ông tổ, kiêm ông vua hát nói Nguyễn Công Trứ. Như đã biết, hát nói là một thể loại đặc biệt ở tính chất tổng hợp, nguyên hợp giữa các thành tố: văn chương, thanh nhạc, vũ đạo và sắc dục đang ở độ tinh khiết, thanh tao. Thưởng thức hát nói chính là thưởng thức thành quả nghệ thuật nguyên hợp đó, đúng là cha ông ta thuở trước, trong đó nổi lên có Nguyễn Công Trứ đã quá thông minh, quá tài giỏi, quá khôn trong việc sáng tạo ra thể hát nói để hưởng thụ một cách phi Nho, phi Phật nhưng rất nhân bản, rất người, rất nghệ thuật trong cuộc sống trần gian dưới chế độ phong kiến khắc nghiệt. Nguyễn Công Trứ nếu không có nồng độ đắm say với triết lý hành lạc đó thì làm gì trở thành ông tổ, ông vua của thể loại hát nói trong lịch sử thơ ca Việt Nam. Nói đến cái Tôi - cá thể Nguyễn Công Trứ lại cũng không thể bỏ quên cái ngất ngưởng, cái ngông của ông. Trong cuộc sống loài người, ngông hay ngất ngưởng cũng có hai trạng thái. Một là đáng ghét. Một lại đáng yêu. Nguyễn Công Trứ và sau ông là Tản Đà, thuộc trạng thái đáng yêu, đáng kính. Bởi ở đây, ngông, hay ngất ngưởng thực chất là một hình thức tồn tại đặc biệt của nhân phẩm cao đẹp. Ngông, ngất ngưởng là khác người. Nhưng khác ở chỗ xa lạc với sự tham lam, nịnh hót, xỏ xiên, thủ đoạn, bần tiện... Ngược lại là điệu sống nhân bản hơn, người hơn và cũng triết lý hơn dù trong một hình thức không bình thường. Đọc kỹ lại Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, sẽ thấy rõ điều đó. 
*
Nguyễn Công Trứ không phải là một đại anh hùng cứu quốc, một nhà tư tưởng lớn, một học giả lớn, một thiên tài văn chương số I, một nhà đại cách mạng nhưng ở Nguyễn Công Trứ là "sự lên ngôi của cái Tôi - cá thể" hiếm và trội mang giá trị nhân bản chân chính cho dù trong thực tế nó vẫn không thoát khỏi bi kịch của trần gian. Những điều được dẫn giải như trên hy vọng sẽ được khoa học nhân văn nước nhà chấp nhận. Nếu đúng thế thì tôi cầu nguyện cho đất nước hôm nay và mai sau có được nhiều Nguyễn Công Trứ theo tinh thần tiếp thu có phát triển trên cơ sở nhận thức đầy đủ hơn và tường minh hơn về con người - cá thể trong sự sống nhân quần với những nội dung phong phú cao đẹp và cần thiết của nó trong đó có tư duy cá thể mà Descartes đã khởi xướng bên trời Âu từ thế kỷ XVII nhưng chính là của chung cho nhân loại trong muôn đời1
Yên Hoà thư trai
______________
(1) Đã có một chương trình Khoa học quốc gia có mã số KX-07 do Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm với nhan đề này. 
Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 3.2009 
Học quên để nhớ
Đặng vương Hưng
Học Quên để... nhớ cho nhiều
Học hờn giận để... cưng chiều đấy thôi
Học lẻ loi để... có đôi
Học ghen là để... cho người thêm yêu
Học Quên để... nhớ cho nhiều
Học hờn giận để... cưng chiều đấy thôi
Học lẻ loi để... có đôi
Học ghen là để... cho người thêm yêu
Em thì xa vắng bao nhiêu 
Tôi đành học cách nói điều vu vơ
Học sắc sảo để... dại khờ
Học già dặn để... ngây thơ thủa nào
Tôi giờ còn lại chiêm bao
Cố trần tục để... thanh tao kiếp người
Mải mê học khóc cho... cười
Quên hờ hững để cùng người đam mê... 

Tài liệu đính kèm:

  • docTAI LIEU VAN HAY.doc