A. phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài:
Trong xu thế phát triển hiện nay, đất nước ta muốn phát triển bền vững, đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH, nhanh chóng hoà nhập với thế giới thì nguồn lực con người là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Để có nguồn nhân lực có chất lượng, có đầy đủ mọi năng lực đáp ứng yêu cầu xã hội thì đòi hỏi ngành Giáo dục &Đào tạo phải đầu tư, đổi mới một cách toàn diện.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, ngành GD&ĐT đã thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Nghị quyết số 40/ 2000/ QH10, kì họp thứ 8, Quốc hội khoá X đã nêu mục tiêu của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là " .xây dựng nội dung, chương trình giáo dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, phục vụ CNH, HĐH đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và thế giới."
Năm học 2005- 2006 là năm đầu tiên thực hiện chương trình thay sách lớp 10 đại trà trên toàn quốc. Thực hiện mục tiêu của đổi mới chương trình giáo dục Trung học phổ thông, tất cả các môn học đều có sự thay đổi cơ bản dựa trên cơ sở phát huy mặt tích cực của chương trình cũ, đưa vào những nội dung, phương pháp mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại. Ngoài việc đổi mới sách giáo khoa, chương trình., thì việc đổi mới phương pháp giảng dạy cũng rất quan trọng.
A. phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài: Trong xu thế phát triển hiện nay, đất nước ta muốn phát triển bền vững, đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH, nhanh chóng hoà nhập với thế giới thì nguồn lực con người là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Để có nguồn nhân lực có chất lượng, có đầy đủ mọi năng lực đáp ứng yêu cầu xã hội thì đòi hỏi ngành Giáo dục &Đào tạo phải đầu tư, đổi mới một cách toàn diện. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, ngành GD&ĐT đã thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Nghị quyết số 40/ 2000/ QH10, kì họp thứ 8, Quốc hội khoá X đã nêu mục tiêu của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là " ...xây dựng nội dung, chương trình giáo dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, phục vụ CNH, HĐH đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và thế giới." Năm học 2005- 2006 là năm đầu tiên thực hiện chương trình thay sách lớp 10 đại trà trên toàn quốc. Thực hiện mục tiêu của đổi mới chương trình giáo dục Trung học phổ thông, tất cả các môn học đều có sự thay đổi cơ bản dựa trên cơ sở phát huy mặt tích cực của chương trình cũ, đưa vào những nội dung, phương pháp mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại. Ngoài việc đổi mới sách giáo khoa, chương trình..., thì việc đổi mới phương pháp giảng dạy cũng rất quan trọng. Trong chương trình Văn - Tiếng Việt lớp 10 trước đây cũng như chương trình Ngữ văn lớp 10 mới hiện nay, Truyện Kiều luôn chiếm một vị trí rất quan trọng. Tuy nhiên, trong các giáo khoa, sách tham khảo hiện nay có rất nhiều bài nghiên cứu nhưng phần lớn đó là các bài mang tính bác học, đòi hỏi người đọc phải có một trình độ hiểu biết sâu sắc về Truyện Kiều. Đối với học sinh Trung học phổ thông, nhất là học sinh Bổ túc Trung học phổ thông, do trình độ, điều kiện còn hạn chế mà nhiều em chưa có những biện pháp tiếp cận thích hợp đối với Truyện Kiều. Nhiều em còn chưa biết hoàn cảnh ra đời, nội dung chính... cũng như tóm tắt được truyện. Vì những lí do trên, tôi chọn đề tài "Một số biện pháp giúp học sinh tiếp cận Truyện Kiều ." 2. Mục đích của đề tài: Tóm lược những nội dung chính, đề xuất một số biện pháp nhằm giúp cho giáo viên, học sinh có cách tiếp cận, tìm hiểu, học tập về Truyện Kiều nói chung, cũng như việc học tập các đoạn trích trong sách giáo khoa lớp 10 Bổ túc Trung học phổ thông. B. Nội dung. Truyện Kiều là một tác phẩm văn học dài, có nội dung phong phú, nhiều tình tiết, nhiều nhân vật, trong khi đó ở chương trình phổ thông học sinh chỉ được học một số đoạn riêng lẻ. Nếu người giáo viên không có sự đầu tư kĩ lưỡng, học sinh không có sự chuẩn bị chu đáo thì dễ dẫn đến một cách hiểu chưa thấu đáo, chưa hoàn chỉnh ở học sinh. Theo bản thân tôi, để việc dạy thành công các đoạn trích trong SGK lớp 10 giáo viên có thể thực hiện theo các bước sau đây: + Trước hết giáo viên hướng dẫn cho học sinh nắm khái quát về nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm, tác giả. + Tiếp theo giáo viên giúp học sinh nắm được cốt truyện, nội dung chính, những giá trị về nội dung và nghệ thuật... + Sau đó giáo viên mới đi vào từng đoạn trích cụ thể, trong khi đi vào từng đoạn trích cần đặt đoạn trích đó trong tổng thể chung của tác phẩm và trong sự liên hệ, so sánh với các đoạn trích khác. Với quan điểm đó, ngay từ tiết đầu tiên học về truyện Kiều nên cung cấp cho học sinh những nội dung khái quát, những nội dung cơ bản đó là: 1. Về nguồn gốc, xuất xứ. Truyện Kiều là tờn gọi phổ biến của tỏc phẩm Đoạn Trường Tân Thanh của đại thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm này đó đưa Nguyễn Du lên hàng danh nhân văn hoá thế giới. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, truyện được viết ra sau khi ông đi sứ nhà Thanh về và theo lời truyền thỡ Phạm Quý Thớch đó cho khắc in vào khoảng từ năm 1820 đến năm 1825. Bản khắc in đó nay không cũn nữa. Tỏc phẩm này được viết bằng chữ Nụm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bỏt. Nội dung của truyện dựa theo tỏc phẩm Kim Võn Kiều truyện của Thanh Tõm Tài Nhõn người Trung Quốc. Hiện nay, ở Việt Nam lưu truyền một số dị bản của tác phẩm này. Bản nôm cổ nhất cũn lưu giữ là bản "Liễu Văn Đường" khắc in năm Tự Đức thứ 19 (1866), mới phỏt hiện ở Nghệ An. Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều vẫn luôn tồn tại trong đời sống của dân tộc Việt. Đây là một trong số ít các tác phẩm lớn được nhiều người dân đủ mọi tầng lớp học thuộc lũng. Đối đáp bằng những ngôn từ, lời lẽ trong truyện Kiều cũng đó trở thành một hỡnh thức sinh hoạt văn hoá của một số cộng đồng người Việt như lẩy Kiều, trũ Kiều, vịnh Kiều, tranh Kiều, búi Kiều... Truyện Kiều là tiểu thuyết viết bằng thơ lục bát. Truyện phản ỏnh xó hội đương thời thông qua cuộc đời của nhân vật chính Vương Thuý Kiều. Xuyờn suốt tỏc phẩm là chữ "tâm" theo như Nguyễn Du đó tõm niệm "Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu" (nghĩa là "Linh sơn chỉ ở tại lòng người thôi"). Ngày nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tỏc phẩm văn học Việt Nam được giới thiệu rộng rói nhất đến với các du khách cũng như các nhà nghiên cứu nước ngoài. Bản Đoạn trường tân thanh in năm 1902 và Kim Vân Kiều tân tập khắc in năm 1906 2. Hoàn cảnh ra đời: Theo Giáo sư Nguyễn Lộc ("Từ điển Văn học" tập II - Nhà xuất bản Khoa học Xó hội, 1984) trang 455 viết: "Đoạn trường tân thanh là một truyện thơ Nụm viết bằng thể lục bỏt, dựa theo tỏc phẩm Kim Võn Kiều truyện của Thanh Tõm Tài Nhõn, Trung Quốc. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Có thuyết nói Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bỡnh (1804-1809). Thuyết sau này được nhiều người chấp nhận". 3. Nội dung Truyện Kiều: Nội dung chớnh của truyện xoay quanh quóng đời lưu lạc sau khi bán mỡnh chuộc cha của Thuý Kiều, nhõn vật chớnh trong truyện, một cụ gỏi "sắc nước hương trời" và cú tài "cầm kỳ thi hoạ". Theo kịch tớnh của tỏc phẩm, cú thể chia truyện thành 13 phần nhỏ như sau: 3.1. Mở bài. Nguyễn Du đem thuyết "tài mệnh tương đố" (tài và mệnh ghét nhau) làm luận đề cuốn truyện. Sau đó tác giả nói về gia thế và tả tài sắc hai chị em Thuý - Kiều. Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trong thấy mà đau đớn lòng. 3.2. Kiều thăm mộ Đạm Tiên. Vào khoảng thời vua Minh Thế Tụng (1522-1566), trong một gia đỡnh viờn ngoại họ Vương có 3 người con, con cả là Vương Thuý Kiều, sau là Thuý Võn và Vương Quan là cậu út. Hai chị em Thỳy Kiều và Thuý Võn thỡ một người một vẻ, mười phân vẹn mười, nhưng so bề tài sắc thỡ Thuý Kiều lại hơn hẳn cô em. Trong một lần đi tảo mộ vào tiết thanh minh, khi đi qua mộ Đạm Tiên, một nấm đất bên đàng, Kiều đó khúc thương và không khỏi cảm thấy ái ngại cho một kiếp hồng nhan "nổi danh tài sắc một thì" mà giờ đây "hương khói vắng tanh". Vốn là một con người giàu tỡnh cảm và tinh tế nờn Kiều cũng đó liờn cảm tới thõn phận của mỡnh và của những người phụ nữ nói chung : Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. 3.3. Kiều gặp Kim Trọng. Cũng trong ngày hôm đó, Kiều đó gặp Kim Trọng, là một người vốn nhà trâm anh, "đồng thân" với Vương Quan, từ lâu đó "trộm nhớ thầm yêu" nàng. Bên cạnh đó thỡ Kim Trọng cũng là người vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa. Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ này thỡ hai người tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Tiếp sau lần gặp gỡ ấy là mối tương tư: Người đâu gặp gỡ làm chi Trăm năm có biết duyên gì hay không. Kim Trọng vỡ tương tư Kiều nên đó quờn hết cả thỳ vui hàng ngày, tỡm cỏch chuyển đến ở gần nhà Kiều. Sau đó mầy tuần trăng thỡ Kim, Kiều đó gặp nhau, Kiều đó nhận lời Kim Trọng và họ đó trao đổi kỷ vật cho nhau. Nhiều lần Kim Trọng cũng muốn "vượt rào" nhưng Thuý Kiều là một người sắc sảo, cô đó thuyết phục được Kim Trọng : Vội chi liễu ép hoa nài, Còn thân ắt lại đền bồi có khi! Thấy lời đoan chính dễ nghe, Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân. 3.4. Kiều bán mình chuộc cha. Tai họa đó đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ cũn đang thổn thức với mối tình đầu. Bọn sai nha đầu trâu, mặt ngựa đó đánh đập cha và em nàng một cách tàn nhẫn trong nỗi oan kêu trời không thấu. Trong hoàn cảnh bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mỡnh để chuộc cha, nhưng nàng không quên lời hẹn ước trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để chịu tang chú. Thuý Kiều đó nhờ cậy Thuý Võn thay mỡnh trả lời hẹn ước với Kim Trọng: Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thõn phận của chớnh mỡnh: Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây. Do đau thương quá nên Thuý Kiều đó ngất đi trên tay người thân. 3.5. Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú Bà. Mó Giỏm Sinh vốn là một đứa phong tình đã quen cựng với Tỳ Bà mở hàng buôn phấn bán hương, chuyên đi mua gái ở các chốn về "lầu xanh". Thấy Thuý Kiều như là một món hàng ngon, nhất quyết mua về, lấy tiếng là làm vợ nhưng sau khi con ong đã tỏ đường đi lối về, Thuý Kiều đó bị Tỳ Bà bắt phải tiếp khách. Nàng nhất quyết không chịu, tự vẫn bằng dao nhưng không chết. Tú bà đành nhượng bộ cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích. Ở nơi này, nỗi nhớ người thân luôn luôn ấp ủ trong lũng : Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Và nỗi buồn của người thiếu nữ được thể hiện qua những câu thơ chất chứa đầy cảm xúc : Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu. 3.6. Kiều mắc lừa Sở Khanh. Sống một mỡnh giữa khụng gian mờnh mụng xa vắng đó nên khi gặp Sở Khanh, một gó cú hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng và cũng khỏ "văn vẻ", cô như người đang sắp chết đuối vớ được phao mà không cũn bỡnh tĩnh nhận ra lời lường gạt sáo rỗng của Sở Khanh. Than ôi! sắc nước hương trời Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây? Kiều vội vàng trao thõn cho Sở Khanh và cựng Sở Khanh trốn thoát khỏi lầu Ngưng Bích. Cô nào ngờ mỡnh đó rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ cô lại vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thỡ Tỳ bà đến và lúc này nàng mới rừ bản chất con người Sở Khanh: Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh, Một tay chôn biết mấy cành phù dung! Đến lúc này, nàng đành phải chịu quy phục, mặc cho thể xác đến phong trần cũng phong trần như ai và cảm thấy xút xa cho chớnh bản thõn mỡnh: Khi tỉnh rượu, khi tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa. 3.7. Kiều gặp Thúc Sinh. Thúc Sinh tuy đó cú vợ là Hoạn Thư nhưng cũng là người mộ tiếng Kiều nhi từ lõu. Thỳc Sinh trong tỏc phẩm này cú lẽ là cú diễn biến tỡnh cảm, tâm tư mang tính của con người trong "đời thường" nhất, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Thúc Sinh là thế giới của đam mê và là sứ giả phong lưu . Chưa có một "đấng nam nhi" nào trong truyện Kiều cú cỏch nhỡn nõng tấm thõn đầy nhục dục của Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh Rõ ràng trong ngọc trắng ngà! Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên. Do vậy Kiều đó ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mỡnh. Hai người vui vẻ bờn nhau "ý hợp tâm đầu". Khi hương sớm, khi trà trưa, Bàn vây điểm nước đường tơ hoạ đàn. Thúc Sinh đó chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh, chàng yờu Thuý Kiều bằng một tỡnh yờu chõn thực và trõn trọng cụ, điều này thể hiện tính nhân văn của truyện Kiều. Tuy nhiờn, vỡ là gỏi lầu xanh Kiều đó khụng được Thỳc ễng (bố của Thúc Sinh) thừa nhận. Thúc Ông đó đưa Kiều lên quan xét xử: Phong lôi nổi trận tơi bời, Nặng lòng e ấp tính bài phân chia. Quyết ngay biện bạch một bề, Dạy cho má phấn lại về lầu xanh! Kiều quyết tõm dan dớu với Thỳc Sinh khụng chịu quay về lầu xanh nờn lại thờm một lần khốn khổ: Dạy rằng: Cứ phép gia hình! Ba cây chập lại một cành mẫu đơn. Phận đành chi dám kêu oan, Đào hoen quen má liễu tan tác mày. Một sân lầm cát đã đầy, Gương lờ nước thuỷ mai gầy vóc xương. May thay vị quan đó tuy tỏ ra nghiêm khắc nhưng cũng có tỡnh người. Thấy Thúc Sinh đau khổ khi thấy Kiều vỡ mỡnh mà gặp nạn, ông đó cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc Ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao lâu thỡ nàng lại mắc vạ với Hoạn Thư, vợ chính của Thúc Sinh. 3.8. Kiều và Hoạn Thư. Khi biết chuyện, cha mẹ Thúc Sinh nổi giận đũi trả Kiều trở về chốn cũ, nhưng khi biết Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn, cú tài làm thơ, bố của Thúc Sinh đó phải thốt lờn : Thương vì hạnh trọng vì tài Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba. Kiều đó ở cựng Thỳc Sinh suốt 1 năm rũng và vẫn luụn khuyờn Thỳc Sinh về thăm vợ cả Hoạn Thư, họ vẫn chưa có con chung sau nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc Sinh không ngờ rằng Hoạn Thư đó sai gia nhõn đi tắt đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, cũn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tỡ nhà Hoạn Thư với cái tên là Hoa Nô. Lúc Thúc Sinh về nhà, nhỡn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào mỡnh, "phách lạc hồn xiêu" chàng nhận ra rằng mỡnh mắc lừa của vợ cả. Hoạn Thư đó bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn: Bốn giây như khóc như than Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng Cũng trong một tiếng tơ đồng Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm. Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Hoạn Thư bảo Thỳc Sinh tra khảo vỡ lý do gỡ. Thuý Kiều viết tờ khai núi rằng vỡ cha bị oan khiờn, phải bỏn mỡnh và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan...rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nụ vào Quan Âm cỏc sau vườn để chép kinh. Thực ra, Hoạn Thư đánh Kiều rất nhiều, Nguyễn Du miờu tả về "đòn ghen" của Hoạn Thư là nhẹ như bấc, nặng như chì. Hoạn Thư là một người đàn bà rất cao tay, không thủ tiêu, hay rạch mặt hay tàn phá cơ thể Kiều mà làm cho Kiều mang mặc cảm về địa vị, về "chữ trinh", về thõn phận mỡnh. Hoạn Thư đó ứng xử theo thường tỡnh hiện hữu của dõn gian, là: chút dạ đàn bà, ghen tuụng thỡ cũng người ta thường tỡnh!, Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai. Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc Sinh, làm Kiều ra đi một cách tự nguyện. Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đó gặp Sư trưởng Giỏc Duyờn (duyên giác ngộ?). Bà đó cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc Bà, một Phật tử thường hay lui tới chùa. Ai ngờ Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn, Bạc Bà đó khuyờn kiều lấy chỏu mỡnh là Bạc Hạnh. Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại bị bỏn vào lầu xanh. 3.9. Kiều gặp Từ Hải. Ở lầu xanh, Kiều "ngậm đắng nuốt cay" sống cuộc sống ô nhục. Một ngày đẹp trời, có một người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải, một hải tặc lừng danh thời đó: Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao, tài năng phi thường đường đường một đấng anh hào, côn quyền hơn sức lược thao gồm tài. Hai bên đó phải lũng nhau và Từ Hải chuộc Kiều về chốn lầu riờng. Sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại động lòng bốn phương, muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến. Thuý Kiều muốn xin đi cùng nhưng Từ Hải không cho đi: Nàng rằng phận gái chữ tòng Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi Từ rằng tâm phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình. Trong lúc Từ Hải đi chinh chiến, nàng ở nhà nhớ tới bố mẹ chắc đó da mồi tóc sương, cũn em Thuý Võn chắc đang tay bồng tay mang vui duyờn với Kim Trọng. Từ Hải sau đó đó chiến thắng trở về, mang binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu quy. 3.10. Kiều báo thù. Lỳc vui mừng cũng là lỳc Thuý Kiều nghĩ đến những ngày "hàn vi", nàng kể hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn cú sự "ân đền oán trả". Những Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,...đều bị chịu gia hỡnh, cũn những vị sư đó giỳp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đều được thưởng. Riêng Hoạn Thư nhờ khéo nói: Rằng tôi chút phận đàn bà. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình nên được tha. Sau đó Kiều có gặp sư Giác Duyên, được bà báo rằng 5 năm nữa hai người sẽ gặp nhau vỡ Kiều cũn phải trải qua nhiều lận đận nữa. 3.11. Kiều tự vẫn. Hồ Tụn Hiến bấy giờ là một quan tổng đốc của triều đỡnh, mang nhiệm vụ đến khuyên giải Từ Hải đầu hàng và quy phục triều đỡnh. Hồ Tụn Hiến đó bày mưu mua chuộc Thuý Kiều, đánh vào ham muốn cú một cuộc sống "an bình" của phụ nữ, nàng đó thật dạ tin người và xiêu lũng nghe theo lời Hồ Tụn Hiến về thuyết phục Từ Hải ra hàng : Trên vì nước dưới vì nhà, Một là đắc hiếu hai là đắc trung. Sau đó, Hồ Tôn Hiến đó thừa cơ bao vây, nhỡn thấy Từ Hải, Thuý Kiều định lao tới để tự vẫn nhưng chàng bị mắc mưu và đó chết đứng giữa đàng. Thuý Kiều cảm thấy hối tiếc và dằn vặt bản thõn: Mặt nào trông thấy nhau đây? Thà liều sống thác một ngày với nhau! Hồ Tôn Hiến đang đà thắng đó ộp Kiều phải thị yến dưới màn, Thuý Kiều đó khúc thương và xin được mang Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đó chấp nhận cho cảo táng di hình bên sông. Biết nàng giỏi đàn, Hồ Tôn Hiến bắt nàng phải chơi, Kiều đó thể hiện nỗi lũng mỡnh qua tiếng đàn: Một cung gió thảm mưa sầu, Bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay! Ve ngâm vượn hót nào tày, Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu. Sáng hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mỡnh, Hồ Tụn Hiến đó gỏn ngay Kiều cho người Thổ quan. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đó núi với mỡnh trong mộng Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau nàng đó quyết định nhảy xuống sông tự vẫn. 3.12. Kim Trọng đi tìm Kiều. Về phần Kim Trọng, sau khi hộ tang chỳ xong, quay trở lại thỡ biết tin gia đỡnh Kiều gặp nạn, Kiều đó bỏn mỡnh chuộc cha. Kim Trọng đau xót: Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê. Mọi người trong nhà khuyên can hết lẽ, chàng nghe theo lời dặt của Kiều và đón cha mẹ Kiều cùng Thuý Võn sang nhà chăm lo phụng dưỡng, đồng thời vẫn đưa tin tỡm kiếm nàng khắp nơi. Tuy sâu duyên mới nhưng chàng lại càng dào tình xưa. Vương Quan và Kim Trọng sau đó đều đỗ đạt và làm quan. Sau nhiều ngày tháng tỡm kiếm thỡ hai người mới dũ la được thông tin của Thuý Kiều là đó trầm mỡnh dưới sông Tiền Đường. Ra đến sông, mọi người gặp sư Giác Duyên ở đó, được biết là Thuý Kiều đó được bà cứu mang về cưu mang. Sau đó, mọi người được dẫn về gặp lại nàng Kiều, mừng mừng tủi tủi. 3.13. Tái hồi Kim Trọng. Sau 15 năm lưu lạc, Thuý Kiều đỡ trở về đoàn viên với gia đỡnh. Nhưng nàng chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thuý Võn chớnh là người đầu tiên đó lờn tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thuý Kiều đó tõm sự với Kim Trọng: Thân tàn gạn đục khơi trong Là nhờ quân tử khác lòng người ta. Nàng ghi nhận tấm lũng của Kim Trọng nhưng tự thấy mỡnh khụng cũn xứng đáng với chàng nữa. Hai người trở thành bạn chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ. Nguyễn Du đó gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mỡnh về xó hội phong kiến lỳc đó qua các câu thơ nhận xét về cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều: Ngẫm hay muôn sự tại trời Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao. * Sau khi đã cung cấp cho học sinh những nội dung cơ bản về Truyện Kiều thì mới đi vào từng đoạn trích cụ thể. Phương pháp đọc hiểu các đoạn trích đó theo các bước của cách đọc hiểu các văn bản thơ nói chung. Có như vậy việc dạy học Truyện Kiều trong nhà trường mới đạt hiệu quả. c. Kết luận: Tiếp cận và nghiên cứu Truyện Kiều trong Trường Phổ thông cũng như trong xã hội là một vấn đề rất hấp dẫn và thú vị. Tuy nhiên, đây là một tác phẩm văn học lớn và có nhiều cách nhìn nhận, đánh giá cũng chưa thật thống nhất với nhau. Đối với học sinh của các trường Bổ túc Trung học phổ thông thì việc tiếp cận, nghiên cứu để có thể hiểu được các đoạn trích giảng trong sách giáo khoa và hiểu được khái quát về Truyện Kiều là một điều tương đối khó. Bản thân tôi với kinh nghiệm giảng dạy của mình, qua tiếp xúc, tìm hiểu thực trạng học sinh, thấy được những vấn đề khó khăn nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài này. Mặc dù đã đề cập được một số biện pháp để giúp việc tiếp cận Truyện Kiều trong nhà trường, song vẫn còn nhiều vấn đề mà đề tài chưa có điều kiện đề cập tới. Trong phạm vi đề tài nhỏ này bản thân tôi chưa thể nêu được tất cả mọi khía cạnh của việc tiếp cận tác phẩm mà chỉ mong muốn góp thêm một tiếng nói trong việc nghiên cứu, tìm hiểu, dạy, học Truyện Kiều. Kính mong các Thầy, Cô giáo, các đồng nghiệp, các em học sinh bổ sung, góp ý để cho đề tài được đầy đủ, toàn diện hơn. Quảng Ninh, tháng 5 năm 2007 Giáo viên viết sáng kiến Phạm Trung Kiên
Tài liệu đính kèm: