I. TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC LỖI CHÍNH TẢ MÀ HỌC SINH THƯỜNG MẮC PHẢI Ở PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 6.
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nếu ở trường tiểu học, Chính tả là phân môn của tiếng Việt thì ở Trường THCS – Chính tả được tích hợp vào môn Ngữ văn, đặc biệt là với đối tượng học sinh lớp 6. Chính tả có một ví trí quan trọng là hình thành năng lực, thói quen viết đúng chính tả, nói rộng ra là năng lực và thói quen viết đúng tiếng Việt văn hóa, tiếng Việt chuẩn mực.
Từ vấn đề trên có thể khẳng định rằng: muốn học tốt tiếng Việt ngoài việc đọc, học sinh cần phải viết đúng. Vì vậy viết đúng là nhu cầu cần thiết đối với mỗi học sinh. Nó giúp các em nhận thức được mình tiếp cận đúng hay sai và sai ( lỗi) chỗ nào? Tiếng nào? Đồng thời giúp các em học tốt các môn học khác.
Thế nhưng hiện nay trong xu thế hội nhập quốc tế, bên cạnh tiếp thu và Việt hóa được nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói và chữ viết thì sự lai căng tiếng nói, chữ viết nước ngoài ngày một tăng. Đặc biệt là với các em học sinh – đối tượng dễ bắt chước, có thói quen học đòi và thích cái lạ. Có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi chính tả ở một bài kiểm tra Tập làm văn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi nhận thấy việc các em mắc lỗi chính tả đã trở thành “ tệ nạn”, một căn bệnh gây nhức nhối cho gia đình, nhà trường và xã hội. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em ở môn Tập làm văn cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm cho các em mất tự tin mà trở nên rụt rè và nhút nhát.
Vì lí do đó, tôi đã cố gắng thống kê, phân loại, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp khắc phục “ để giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả”, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp, nhằm mục tiêu đào tạo những chủ nhân tương lai năng động, sáng tạo phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. Do điều kiện và thời gian nên giới hạn nghiên cứu của đề tài chỉ gói gọn ở học sinh khối 6 Trường THCS Tà Long – Đakrông – Quảng Trị trong năm học 2008 – 2009.
I. TÊN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC LỖI CHÍNH TẢ MÀ HỌC SINH THƯỜNG MẮC PHẢI Ở PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 6. II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Nếu ở trường tiểu học, Chính tả là phân môn của tiếng Việt thì ở Trường THCS – Chính tả được tích hợp vào môn Ngữ văn, đặc biệt là với đối tượng học sinh lớp 6. Chính tả có một ví trí quan trọng là hình thành năng lực, thói quen viết đúng chính tả, nói rộng ra là năng lực và thói quen viết đúng tiếng Việt văn hóa, tiếng Việt chuẩn mực. Từ vấn đề trên có thể khẳng định rằng: muốn học tốt tiếng Việt ngoài việc đọc, học sinh cần phải viết đúng. Vì vậy viết đúng là nhu cầu cần thiết đối với mỗi học sinh. Nó giúp các em nhận thức được mình tiếp cận đúng hay sai và sai ( lỗi) chỗ nào? Tiếng nào? Đồng thời giúp các em học tốt các môn học khác. Thế nhưng hiện nay trong xu thế hội nhập quốc tế, bên cạnh tiếp thu và Việt hóa được nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói và chữ viết thì sự lai căng tiếng nói, chữ viết nước ngoài ngày một tăng. Đặc biệt là với các em học sinh – đối tượng dễ bắt chước, có thói quen học đòi và thích cái lạ. Có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi chính tả ở một bài kiểm tra Tập làm văn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi nhận thấy việc các em mắc lỗi chính tả đã trở thành “ tệ nạn”, một căn bệnh gây nhức nhối cho gia đình, nhà trường và xã hội. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em ở môn Tập làm văn cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm cho các em mất tự tin mà trở nên rụt rè và nhút nhát. Vì lí do đó, tôi đã cố gắng thống kê, phân loại, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp khắc phục “ để giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả”, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp, nhằm mục tiêu đào tạo những chủ nhân tương lai năng động, sáng tạo phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. Do điều kiện và thời gian nên giới hạn nghiên cứu của đề tài chỉ gói gọn ở học sinh khối 6 Trường THCS Tà Long – Đakrông – Quảng Trị trong năm học 2008 – 2009. III. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Như chúng ta đã biết, chữ viết của mỗi dân tộc tạo thành một hệ thống và có những quy tắc chính tả riêng. Muốn viết đúng tiếng Việt, ta cần phải tuân theo những quy tắc của tiếng Việt. Vậy chữ viết là gì? Theo tác giả cuốn Tiếng Việt thực hành, chữ viết là hệ thống khoa học bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói và có những quy tắc, quy định riêng. Mỗi dân tộc lại có một thứ chữ viết riêng, nó làm nên bản sắc của một dân tộc, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Viết đúng tiếng Việt – « quốc túy » của đất nước Con Rồng Cháu Tiên là rất quan trọng. Hơn một ngàn năm Bắc thuộc, Trung Quốc muốn « đồng hóa » Việt Nam, chúng ý đồ biến Việt Nam thành một quận, huyện của chúng. Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên ở bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng thì cũng chính lúc đó, dân tộc Việt Nam lại một lần nữa chịu ảnh hưởng của thứ ngôn ngữ ngoại nhập – mặt hàng không được ai đón nhận. Như vậy tiếng Việt của ta không phải phát sinh và phát triển theo một con đường thẳng mà trải qua những khúc khuỷu , quanh co. IV. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : 1. Đối tượng : Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả mà học sinh thường mắc phải ở phân môn Tập làm văn. 2. Phương pháp nghiên cứu : Trong quá trình làm đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp sau : - Chấm bài nhằm phát hiện lỗi chính tả trong bài Tập làm văn của học sinh. - Từ kết quả của việc chấm bài tiến hành thống kê chất lượng bài làm của học sinh, phân loại đối tượng. - Đối thoại, đàm thoại với học sinh để phát hiện lỗi chính tả trong việc phát âm của các em. - Tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp. - Tham khảo tài liệu của các tác giả có liên quan đến đề tài mình nghiên cứu. V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU : 1. Kết quả thống kê lỗi: Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau: a. Về thanh điệu: Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì học sinh không phân biệt 2 thanh hỏi, ngã. Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2 thanh này không ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hoá cao. Ví dụ: Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành b. Về âm đầu: - Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây: + c/k: Céo cờ + g/gh: Con gẹ , gê sợ + ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc + ch/tr: Cây che, chiến chanh + s/x: Cây xả , xa mạc + v/d/gi: Giao động, giải lụa , giòng giống , dui dẻ - Trong các lỗi này, lỗi về ch/tr, s/x, v/d/gi là phổ biến hơn cả c. Về âm chính: - Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây: + ai/ay/ây: Bàn tai, đi cầy, dậy học + ao/au/âu: Hôm sao, mầu đỏ + iu/êu/iêu: chìu chuộng, lim khiết, cây niu + oi/ôi/ơi: nôi gương, xoi nếp + ăm/âm: con tầm, sưu tằm, bụi bậm + im/iêm/êm/em: tim thuốc, lúa chim, cái kềm + ăp/âp: gập gỡ, trùng lấp + ip/iêp/êp/ep: số kíp, liên típ, thệp cưới + ui/uôi: chín mùi, đầu đui, tủi tác + um/uôm: nhụm áo, ao chum + ưi /ươi: trái bửi + ưu/ ươu: ốc bưu, con khứu d. Về âm cuối: - Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây: + an/ang: cây bàn, bàng bạc + at/ac: lang bạc, lường gạc, rẻ mạc + ăn/ăng: lẳn lặn, căn tin + ăt/ăc: giặc giũ, co thắc, mặt quần áo + ân/âng: hụt hẫn, nhà tần + ât/âc: nổi bậc, nhất lên + ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển +êt/êch: trắng bệt + iêt/iêc: mải miếc, tiêu diệc + ut/uc: chim cúc, bão lục + uôn/uông: khuôn nhạc, buồn tắm + uôt/uôc: rét buốc, chải chuốc + ươn/ương: lươn bổng, sung sướn 2. Nguyên nhân mắc lỗi: a. Về thanh điệu: Theo các nhà ngữ âm học, người Việt từ Nghệ An trở vào không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Hay nói đúng hơn trong phương ngữ Trung và Nam không có thanh ngã. Mặt khác, số lượng tiếng mang 2 thanh này khá lớn. Do đó lỗi về dấu câu rất phổ biến. b. Về âm đầu: Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr, s/x. d/gi. Mặt khác, người Miền Nam còn lẫn lộn v và d. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: /k/ ghi bằng c,k,qu) dĩ nhiên là có những quy định riêng cho mỗi dạng, nhưng đối với học sinh tiểu học (nhất là học sinh yếu) thì rất dễ lẫn lộn. c. Về âm chính: Có 2 nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này: - Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi /ie, ươ, uô/ lại được ghi bằng các dạng iê,yê, ia, ya; ươ, ưa; uô, ua (bia - khuya, biên - tuyến, lửa - lương, mua - muôn); âm đệm /w/ lại được ghi bằng 2 con chữ u và o (ví dụ: huệ, hoa). - Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ Nam Bộ đối với các âm chính trong hầu hết các vần trên. d. Về âm cuối: Người Miền Nam phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ng/nh và t/c/ch. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác hai bán âm cuối /i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: sau/sao) do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh khu vực phía Nam. 3. Một số biện pháp khắc phục lỗi: a. Luyện phát âm: - Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ ghi âm - âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy. - Việc rèn phát âm phải thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học môn Ngữ văn. - Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm (nói ngọng, nói lắp,), giáo viên lưu ý học sinh chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo viên phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng được. b. Phân tích, so sánh: - Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ. Ví dụ: Khi viết tiếng “muống” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “muốn”, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này: - Muống = M + uông + thanh sắc - Muốn = M + uôn + thanh sắc. So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “muống” có âm cuối là “ng”, tiếng “muốn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không viết sai. c. Giải nghĩa từ: - Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện phần chú thích ở phần Đọc – hiểu văn bản nhưng nó cũng là viêc làm rất cần thiết trong việc giáo viên đọc bài cho học sinh chép chính tả sau mỗi tiết học Văn, khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng. - Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh, Ví dụ: Phân biệt chiêng và chiên + Giải nghĩa từ chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh cái chiêng hoặc miêu tả đặc điểm (chiêng là nhạc cụ bằng đồng, hình tròn, đánh bằng dùi, âm thanh vang dội). + Giải nghĩa từ chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ chiên hoặc giải thích bằng định nghĩa (chiên là làm chín thức ăn bằng cách cho thức ăn vào chảo dầu, mỡ, đun trực tiếp trên bếp lửa). - Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ. d. Ghi nhớ mẹo luật chính tả: - Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như: + Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé, chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi + Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô + Để phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ gộp âm chỉ mang thanh hỏi không mang thanh ngã: - Trong + ấy = trỏng. - Trên + ấy = trển - Cô + ấy = cổ - Chị + ấy = chỉ - Anh + ấy = ảnh - Ông + ấy = ổng - Hôm + ấy = hổm - Bên + ấy = bển + Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ: Em Huyền mang nặng, ngã đau Anh Ngang sắc thuốc, hỏi ... Bộ phận chỉ biệt hiệu của cơ quan, tổ chức: Sao vàng, Chiến thắng, Anh Bình Minh d) Bộ phận chỉ nơi cơ quan trú đóng, phạm vi hoạt động của cơ quan. Bộ phận này bao giờ cũng là địa danh: Hà Nội, Ðồng Nai, Cửu Long, Huế Ví dụ: Nhà máy cao su Sao Vàng Hà Nội. Xí nghiệp cơ khí Chiến Thắng Cửu Long. + Nếu ở dạng không đầy đủ, loại tên gọi này chỉ có hai, ba bộ phận. Ví dụ: Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ quốc phòng, Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Cần Thơ, Trường đại học sư phạm Hà Nội, Ðoàn cải lương Anh Bình Minh + Ðối với loại tên gọi này, phải viết hoa chữ cái mở đầu của bộ phận (a), bộ (b) viết thường; bộ phận (c) và (d), nếu có, thì viết hoa theo cách viết hoa tên riêng Việt Nam như đã trình bày. Cách viết tên tác phẩm, văn bản: + Ðối với tên tác phẩm, văn bản, văn bản viết tay, chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của tên gọi và cả tên gọi phải đặt trong ngoặc kép. Ví dụ: Người mẹ cầm súng, Tắt đèn, Ðất nước đứng lên, Bến không chồng ... + Trong trường hợp tác phẩm do tên người, địa danh chuyển hoá tạo nên hay có chứa tên riêng, thì các tên riêng phải được viết hoa như quy định đã nêu. Ví dụ: Lão Hạc, Chí Phèo, Hòn Ðất, Rừng U Minh, Ðất Viên An ... - Cách viết tên riêng nước ngoài: Tên riêng nước ngoài (tên người, địa danh) du nhập vào tiếng Việt theo nhiều cách, dẫn đến nhiều cách viết khác nhau: - Viết theo cách phiên âm Hán - Việt: Mạc Tư Khoa, Luân Ðôn, Hoa Thịnh Ðốn, Ba Lan, Anh, Ðức, Pháp. - Viết theo dạng nguyên ngữ hay chuyển tự sang mẫu chữ La Tinh: Victor Hugo, Shakespeare, Napoléon, New York, Paris, London, Washington, Maxim Gorky ... - Phiên âm trực tiếp theo cách ghi âm tiếng Việt: Xêch-xpia, Vich-to-Huy-gô, Niu-oóc, Mê-hi-cô ... Tình hình đó dẫn đến sự phức tạp, thiếu thống nhất trên sách báo hiện nay. Theo quy định, có ba cách viết tên riêng nước ngoài: a) Nếu chữ viết trong nguyên ngữ theo hệ chữ cái La Tinh, thì viết nguyên dạng. Ví dụ: New York, Paris, London, Washington, Victor Hugo, Shakespeare... b) Nếu chữ viết trong nguyên ngữ không theo hệ La Tinh (như tiếng Nga, tiếng Thái, Ả Rập ...) thì viết theo hình thức La Tinh hoá chính thức. Ví dụ: Moskva, Maxim Gorky, Lev Tolstoy, Lomonozov, Majakoski ... c) Một số địa danh và tên người nước ngoài được viết theo cách đọc Hán - Việt quen thuộc, đã dùng quen thì viết theo hình thức quen dùng này, không phiên âm trực tiếp hay viết nguyên dạng. Ví dụ: Anh, Nga, Pháp, Ðức, Ba Lan, Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha, Thuỵ Sĩ, Thụy Ðiển, Thái Lan, Thích Ca, Liễu Thăng, Mao Trạch Ðông ... - Cách viết tắt: Hiện nay, trên sách báo, có hai cách viết tắt: viết tắt theo từ và viết tắt theo âm tiết. + Viết tắt theo từ là cách viết giữ lại chữ cái đầu tiên trong âm tiết thứ nhất của mỗi từ, các chữ cái còn lại bị lược bỏ. Ví dụ: Kiểm tra chất lượng sản phẩm ( KCS). - > Cách viết tắt này lược bỏ nhiều chữ cái, khó phục hồi nguyên dạng khi đọc, nên không phổ biến. + Viết tắt theo âm tiết là cách viết giữ lại chữ cái thứ nhất của mỗi âm tiết, các chữ cái còn lại bị lược bỏ. Ví dụ: Uỷ ban nhân dân ( UBND; hội đồng nhân dân ( HÐND; đại học sư phạm ( ÐHSP v.v... - > Ðây là cách viết tắt phổ biến hiện nay. * Khi viết tắt, cần lưu ý mấy điểm: a) Phải dùng mẫu chữ in hoa, trừ chữ cái viết phụ. Ví dụ: TT (Tổng thống), Ttg (Thủ tướng), TBT (Tổng bí thư). b) Sau chữ cái viết tắt không dùng dấu chấm, trừ trường hợp chữ viết tắt chỉ có một chữ cái hay chữ viết tắt họ tên người. Ví dụ: Ô. (Ông); Q. (Quyền); P. (Phó); N.C (Nam Cao); H.C.M (Hồ Chí Minh); M. Gorky. c) Khi tên gọi xuất hiện lần đầu trong văn bản thì không được viết tắt, mà phải viết dạng đầy đủ và ghi chú chữ viết tắt trong ngoặc đơn. Từ lần xuất hiện thứ hai trở đi, ta mới viết tắt. - Dùng số và chữ biểu thị số : + Dùng số : Khi đề cập đến ngày, tháng, năm, thế kỉ... Theo quy định chính tả, tùy trường hợp mà dùng số Á Rập, còn gọi là số thường (1,2,3...), hay số La Mã (I, II, III...). Ví dụ : Thế kỉ XX, Ðại hội Ðảng lần thứ VI. + Chữ biểu thị số : Bên cạnh một số trường hợp phải viết số, theo quy định chính tả, có khá nhiều trường hợp phải viết bằng chữ, khi biểu thị số chỉ số lượng, số chỉ thứ tự, số chỉ số lượng phỏng chừng ... Ví dụ: Ngày 3, tháng 2, năm 1930 ; một đám tang ; ba đứa con thơ dại ; một cuộc sống ; đẹp nhất ; lần gặp gỡ thứ hai, vài ba người bạn... e. Làm các bài tập chính tả: Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để các em ghi nhớ. - Bài tập trắc nghiệm: * Khoanh tròn vào chữ cái trước những chữ viết đúng chính tả: a. Hướng dẩn b. Hướng dẫn c. Giải lụa d. Dải lụa e. Oan uổng f. Oan uổn * Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô trống trước những chữ viết sai chính tả: Rau muốn Rau muống Chải chuốc Chải chuốt Giặc quần áo Giặt quần áo * Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng chính tả: A B bênh trái bên vực bện tật bệnh tóc - Bài tập chọn lựa: * Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau: Cháu bé đang uống (sửa, sữa) Học sinh ...........mũ chào thầy giáo. (ngả, ngã). Đôi này đế rất .. (giày, dày) Sau khi . con, chị ấy trông thật (xinh, sinh) * Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau: Học sinh . đèn học bài.. đêm khuya. (trong, chong) Lan thích nghe kể.hơn đọc.. (truyện, chuyện) Trời nhiều .., gió heo lại về. (mây, may) - Bài tập phát hiện: * Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng: Xuân diệu là một nhà thơ trử tình nổi tiếng. Cả phòng khéc lẹc mùi thuốc lá. Lá vàng bay liệng trong gió chiều. Bức tườn bị nức ngang nức dọc. - Bài tập điền khuyết: * Điền vào chỗ trống: l/n: lành. ặn, naoúng,anh lảnh s/x: chimẻ, sanẻ, ẻ gỗ. uất khẩu, năng.uất. ươn/ương: bay l..., b. chải, bốn ph.. , chán ch\ iêt/ iêc: đi biền b....., thấy tiêng t/.., xanh biêng b/.. * Điền tiếng láy thích hợp vào chỗ trống: Hắn bỡ.. trước cuộc sống mới lạ. Buổi trưa hè, trời nắng chói . Dây leo chằng, chắn cả lối đi. Tiếng gà kêu quang - Bài tập tìm từ: Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ đồng âm, từ trái nghĩa. * Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng ươt hoặc ươc có nghĩa như sau: Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ: Thi không đỗ: Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh: * Tìm các từ chỉ hoạt động: Chứa tiếng bắt đầu bằng r: Chứa tiếng bắt đầu bằng d: Chứa tiếng bắt đầu bằng gi: Chứa tiếng có vần ươt: Chứa tiếng có vần ươc: * Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau: Trái nghĩa với từ thật thà: Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố: Cây trồng để làm đẹp: Khung gỗ để dệt vải: - Bài tập phân biệt: Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau: nồi - lồi no - lo chúc - chút lụt - lục ngả - ngã - Bài tập giải câu đố * Em chọn tr hay ch để điền vào chỗ trống rồi giải câu đố sau: Mặt.. òn, mặt lại đỏ gay Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao Suốt ngày lơ lửng ên cao Đêm về đi ngủ, .ui vào nơi đâu? (là gì?) * Em chọn dấu hỏi hay dấu ngã để đặt trên những chữ in đậm rồi giải câu đố sau: Cánh gì cánh chăng biết bay Chim hay sà xuống nơi đây kiếm mồi Đôi ngàn vạn giọt mồ hôi Bát cơm trắng deo, đia xôi thơm bùi. ( là gì?) VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Qua một năm rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu trên tôi nhận thấy việc học sinh viết bài Tập làm văn ở khối 6 năm học 2008 – 2009 được nâng cao rõ rệt .Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình vững vàng hơn trong chuyên môn ;tự tin say mê hơn với sự nghiệp trồng người .Ai đó đã từng nói “Nghiệp văn là nghiệp khổ” nhưng tôi chẳng thấy khổ chút nào mà ngược lại ,tôi thấy mình sung sướng hạnh phúc vì được cống hiến ,góp sức mình làm đẹp cho đời. Tiếng Việt là một bộ phận quan trọng cấu thành nên văn hiến Việt, nói như Hồ Chí Minh là « thứ của cải vô cùng lâu đời và quý báu của dân tộc». Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục nhân dân ta phải làm cho tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại. Đối với các em học sinh, các em bước đầu đã ý thức được tầm quan trọng của môn văn , hình thành thói quen viết đúng chính tả, thói quen viết đúng tiếng Việt văn hóa, tiếng Việt chuẩn mực. Số lượng học sinh không còn mắc lỗi chính tả được nâng lên rõ rệt . Nếu ở học kì I, điểm trung bình môn Văn năm học 2008 – 2009 là Tỉ lệ học sinh giỏi Tỉ lệ học sinh khá Tỉ lệ học sinh trung bình Tỉ lệ học sinh yếu Tỉ lệ học sinh kém 2,85% 15,7% 34,76% 43,94% 2,75% Thì thống kê điểm trung bình môn Văn học kì II năm học 2008 – 2009 là rất khả quan . Tỉ lệ học sinh giỏi Tỉ lệ học sinh khá Tỉ lệ học sinh trung bình Tỉ lệ học sinh yếu Tỉ lệ học sinh kém 4,54% 20,08% 44,58% 29,05% 1,75% VII. KẾT LUẬN: Là một giáo viên mới ra trường, tuổi đời và tuổi nghề còn rất trẻ nên với kết quả nghiên cứu của mình, tôi không có tham vọng đưa ra các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề một cách tổng thể mà xin nêu một số kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi tích lũy được trong quá trình giảng dạy, mong muốn được cùng chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn. VIII. ĐỀ NGHỊ: 1. Đối với phụ huynh : Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều thời gian cho các em học tập. Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình. 2. Đối với giáo viên : - Cần nắm vững nguyên tắc và phương pháp dạy chính tả. - Nên phân bố thời gian hợp lí nhằm khắc phục lỗi chính tả với đối tượng là những học sinh yếu, kém môn Văn. 3. Đối với nhà trường : Nên đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị để phục vụ tốt hơn cho việc học cũng như việc dạy của học sinh và giáo viên. 4. Đối với phòng GD : Thường xuyên tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn văn để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận để tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực nâng cao chất lượng dạy học môn Văn. Có kế hoạch tham mưu với cấp trên nên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu, kém môn Văn. Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan, đặc biệt là đầu tư công nghệ thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy Văn. Tà Long, ngày...tháng ....năm 2010. Người thực hiện: Bùi Thị Thùy Linh IX. PHỤ LỤC X. TÀI LIỆU THAM KHẢO : STT TÊN SÁCH TÁC GIẢ NĂM XUẤT BẢN NHÀ XUẤT BẢN 1 Tiếng Việt thực hành Bùi Minh Toán – Lê A 2003 Tái bản lần thứ 6, NXB Giáo dục. 2 Từ điển Tiếng Việt Hoàng Phê chủ biên 1998 NXB Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học in lần thứ 6. 3 Chữa lỗi chính tả cho học sinh Phan Ngọc 1980 NXB Giáo dục X. MỤC LỤC
Tài liệu đính kèm: