Một số kĩ năng để nâng cao hiệu quả trong viết văn nghị luận của học sinh khối 9

Một số kĩ năng để nâng cao hiệu quả trong viết văn nghị luận của học sinh khối 9

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

 Môn Ngữ văn trong nhà trường THCS nói chung và lớp 9 nói riêng chiếm một số lượng tiết đáng kể:

Lớp 6: 35 tuần x 4 tiết / tuần = 140 tiết.

Lớp 7: 35 tuần x 4 tiết / tuần = 140 tiết.

Lớp 8: 35 tuần x 4 tiết / tuần = 140 tiết.

Lớp 9: 35 tuần x 5 tiết / tuần = 175 tiết.

 Vì vậy có thể nói trong các môn học trong nhà trường THCS môn Ngữ văn đóng vai trò hết sức quan trọng, không những tạo tiền đề cho học sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Hơn nữa còn giúp cho các em tiếp nhận các môn khoa học khác một cách tốt hơn.

 Thế nhưng qua thực tế, chúng ta thấy năng lực cảm thụ văn chương, đưa văn chương vào cuộc sống và đặc biệt là cách hành văn của các em nhất là văn nghị luận của đại đa số các em còn rất yếu. Có những học sinh cấp THCS viết những đoạn văn, bài văn hết sức ngây ngô, khiến người đọc nhất là đội ngũ giáo viên bộ môn Ngữ văn phải cười ra nước mắt. Dường như các em bất lực trước ngòi bút của mình. Các em chỉ có thể làm văn bằng cách sao chép bài mẫu hoặc ghi tất cả những lời giảng của giáo viên chứ không thể viết ra những điều mình nghĩ. Chính điều đó làm cho các em lo sợ và ít hào hứng khi học bộ môn Ngữ văn nhất là phân môn tập làm văn.

 

doc 27 trang Người đăng minhquan88 Lượt xem 739Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số kĩ năng để nâng cao hiệu quả trong viết văn nghị luận của học sinh khối 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KĨ NĂNG ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH KHỐI 9
*****000*****
PHẦN I: MỞ ĐẦU
 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
 Môn Ngữ văn trong nhà trường THCS nói chung và lớp 9 nói riêng chiếm một số lượng tiết đáng kể:
Lớp 6: 35 tuần x 4 tiết / tuần = 140 tiết.
Lớp 7: 35 tuần x 4 tiết / tuần = 140 tiết.
Lớp 8: 35 tuần x 4 tiết / tuần = 140 tiết.
Lớp 9: 35 tuần x 5 tiết / tuần = 175 tiết.
 Vì vậy có thể nói trong các môn học trong nhà trường THCS môn Ngữ văn đóng vai trò hết sức quan trọng, không những tạo tiền đề cho học sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Hơn nữa còn giúp cho các em tiếp nhận các môn khoa học khác một cách tốt hơn.
 Thế nhưng qua thực tế, chúng ta thấy năng lực cảm thụ văn chương, đưa văn chương vào cuộc sống và đặc biệt là cách hành văn của các em nhất là văn nghị luận của đại đa số các em còn rất yếu. Có những học sinh cấp THCS viết những đoạn văn, bài văn hết sức ngây ngô, khiến người đọc nhất là đội ngũ giáo viên bộ môn Ngữ văn phải cười ra nước mắt. Dường như các em bất lực trước ngòi bút của mình. Các em chỉ có thể làm văn bằng cách sao chép bài mẫu hoặc ghi tất cả những lời giảng của giáo viên chứ không thể viết ra những điều mình nghĩ. Chính điều đó làm cho các em lo sợ và ít hào hứng khi học bộ môn Ngữ văn nhất là phân môn tập làm văn.
 Đối với học sinh, có thể nói phân môn tập làm văn là phân môn khó nhất trong môn Ngữ văn, theo kết quả điều tra của bản thân tôi vào đầu năm học bằng phiếu an-két sau đây:
 Học phân môn tập làm văn: Thích 1 Không thích: 1 
 Năng lực học tập làm văn: Giỏi 1 Yếu: 1 
 Làm tập làm văn: Khó 1 Dễ 1 
 Theo bản thân em, thể loại văn bản nào sau đây đối với em là khó tạo lập nhất? 
 Tự sự 1 Miêu tả 1 Biểu cảm 1 
 Nghị luận 1 Thuyết minh 1 Hành chính1 
 Kết quả khảo sát cho thấy, trong tổng số 90 phiếu điều tra, trong đó có đến hơn 2/3 ý kiến các em không thích môn tập làm văn, các em cho đây là môn học khó và học rất yếu môn này, đặc biệt là đối với thể loại văn nghị luận.
 Vậy nguyên nhân nào khiến các em rơi vào tình trạng như vậy? Cũng có thể do giáo viên chỉ chú trọng vào dạy lí thuyết mà xem nhẹ khâu thực hành tại lớp? Hoặc sách những bài văn mẫu tràn ngập thị trường các em không cần phải động não suy nghĩ nhưng vẫn có được bài tương đối văn hay?  Nhưng chủ yếu là do các em chưa nắm được phương pháp, từ đó không hình thành được cho mình kĩ năng làm văn. Vậy làm thế nào để giúp các em có kĩ năng làm văn nhất là văn nghị luận? Giải quyết vấn đề này nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu nhưng chỉ đưa ra những kết luận chung, áp dụng cho mọi đối tượng học sinh mà chưa có những giải pháp cụ thể cho từng đối tượng học sinh THCS. Đây chính là lí do mà bản thân tôi chọn đề tài: MỘT SỐ KĨ NĂNG ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH KHỐI 9
 Để làm được đề tài này, tôi đã dựa trên những điều kiện thuận lợi có thể phát huy được. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã được các cấp lãnh đạo nhà trường quan tâm giúp đõ, được các anh chị đồng nghiệp cho ý kiến tham khảo,  và bản thân tôi xét thấy năng lực cũng có thể làm được điều đó. Tuy nhiên, do thời gian không cho phép đề tài tôi chỉ nghiên cứu trong giới hạn phạm vi trường THCS Lộc Quang với khối 9. tôi chân thành cảm ơn quý cấp lãnh đạo, quý đồng nghiệp đã giúp đõ,góp ý xây dựng những khiếm khuyết mà tôi chưa thấy hết. Xin chân thành cảm ơn.
2. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI.
 a. Cơ sở lí luận:
 Dựa vào các sách tham khảo có liên quan đến đề tài, tôi đưa ra một số kinh nghiệm, kĩ năng về làm văn nghị luận để giúp các em tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc viết văn nghị luận.
 b. Cơ sở thực tiễn:
 Tôi tiến hành khảo sát trên bài kiểm tra của học sinh để phát hiện những lỗi, những hạn chế của các em trong viết văn và xin ý kiến các thành viên trong tổ về kinh nghiệm và những kĩ năng cần thiết để nâng cao hiệu quả viết văn của các em.
 Dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn tôi đặt ra nhiệm vụ của đề tài là tiến hành thực nghiệm, kiểm tra, đánh giá kết quả thực nghiệm chuyển tải những kĩ năng mà tôi đã tích lũy được trong quá trình giảng dạy để giúp học sinh lớp 9 viết văn nghị luận tốt hơn.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
 a. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
 Lấy bài khảo sát chất lượng đầu năm để tiến hành phân tích, tìm ra những lỗi, hạn chế của học sinh, sau đó tìm ra những biện pháp khắc phục.
 b. Phương pháp thực nghiệm.
 Sau khi đưa ra được một số kinh nghiệm, kĩ năng tôi tiến hành chọn 2 lớp để thử nghiệm và làm đối chứng ( những lớp này có sức học ngang nhau). Sau đó thống kê, rồi đem ra so sánh, đối chiếu nhau để đi đến kết luận: lớp có áp dụng kinh nghiệm có kết quả như thế nào so với lớp không áp dụng kinh nghiệm.
 c. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
 Dựa vào tài liệu tham khảo tôi đã đọc và lọc ra những nội dung có liên quan đến đề tài của mình. Sau đó tôi sắp xếp theo một trật tự nhất định để tiện theo dõi.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
 Thực hiện đề tài này tôi không có tham vọng gì hơn ngoài mục đích cung cấpcho học sinh lớp 9 nói riêng và học sinh THCS nói chung những kĩ năng khi làm văn nghị luận để các em cải thiện được kĩ năng viết văn nghị luận của mình nói riêng và để học tốt bộ môn Ngữ văn nói chung.
PHẦN II: NỘI DUNG – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KĨ NĂNG ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH KHỐI 9
 Thể loại văn nghị luận mặc dù các em đã học từ lớp 7, nhưng để cho HS nắm sâu hơn về thể văn nghị luận, GV cho HS thấy rõ những đặc trưng cơ bản của văn nghị luận đó là:
 - Trong bài văn nghị luận, luận điểm chính là linh hồn của bài văn. Luận điểm thể hiện rõ tư tưởng, quan điểm, lập trường, chủ trương, đánh giá của người viết với vấn đề cần thuyết phục và làm sáng tỏ. Luận điểm của câu văn thường thể hiện dưới hình thức câu văn ngắn gọn, là những phán đoán có tính chất khẳng định hoặc phủ định.
 - Luận điểm giống như một chiếc đinh để người ta treo toàn bộ chiếc móc áo là bài văn nghị luận trên đó. Nó thể hiện rất rõ mục đích, tư tưởng và quan điểm của người viết. Vì thế một bài văn nghị luận không thể không có luận điểm. Tuy nhiên có luận điểm chưa phải là yếu tố quyết định để có bài văn nghị luận hay mà điều quan trọng là bài văn nghị luận đó như thế nào, có đúng đắn, mới mẻ, độc đáo không? Vậy làm thế nào để có một luận điểm đúng đắn, mới mẻ và độc đáo? Luận điểm mới mẻ không tự nhiên mà có, người viết thường xuất phát từ thực tế cuộc sống thực tế và từ kho tàng tư tưởng đạo lí của dân tộc và nhân loại.
 - Nghị luận là bàn luận vấn đề, là nói lí lẽ, là thuyết phục người đọc bằng lập luận logic chặt chẽ . cái hay, cái đẹp của bài văn nghị luận cũng ở chỗ đó. Có luận điểm mới mẻ, sáng tạo là hết sức quan trọng, nhưng để bài văn thuyết phục cao thì riêng luận điểm chưa đủ. Ơû đây cần phải biết đến vai trò của lập luận. Phải biết lập luận, tức là phải biết trình bày và triển khai các luận điểm; biết nêu vấn đề và giải quyết vấn đề, biết dùng lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ những điều muốn nói, để người đọc hiểu, tin và tán đồng với mình. Luận điểm là nội dung còn lập luận là hình thức diễn đạt nội dung ấy; lập luận là cách nói.
 Trong SGK Ngữ văn 9 tập 2 trong phân môn tập làm văn các bài nghị luận mà chủ yếu là các bài: Cách làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống, Cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí, Cách làm bài văn nghị luận vềmột tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ còn mang tính khái quát, mô hình tổng thể, chưa đề cập nhiều đến việc nhận diện đề, xây dựng lập luận, ngôn ngữ trong văn nghị luận, mặc dù những điều này các em đã học ở các lớp dưới, cho nên học sinh gặp rất nhiều khó khăn trong viết bài.
 Trong hai năm: 2006 – 2007 và 2007 – 2008 bản thân tôi trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn khối 9 trong phần tập làm văn ngoài các bước cơ bản để hướng dẫn học sinh viết một bài văn nghị luận như SGK Ngữ văn 9 tập 2 hướng dẫn thực hiện. Tôi thấy đây là một trong những hạn chế dẫn đến hiệu quả viết văn nghị luận các em chưa cao. Phần lớn lỗi của bài làm các em còn mắc phải là ở khâu nhận diện đề, xây dựng lập luận, ngôn ngữ cho bài văn. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, giáo viên lồng ghép, cung cấp tốt cho các em những điều này là hết sức cần thiết.
I. NHẬN DIỆN ĐỀ.
 Điều đáng quan tâm trước hết khi làm một bài văn nghị luận là việc nhận thức đề. Mỗi đề văn nghị luận thường có những đặc điểm riêng về mặt nội dung và hình thức, không đề nào hoàn toàn giống đề nào, do đó không thể sao chép bài làm thuộc đề này sang bài làm thuộc đề khác. Vì vậy trong quá trình làm bài văn nghị luận, việc xác định yêu cầu của đề tức là tìm hiểu đề để nắm vững, đúng yêu cầu của đề về cả hai phương diện: cách thức nghị luận và nội dung nghị luận là công việc quan trọng có ý nghĩa quyết định trước tiên đối với sự thành bại của mỗi bài văn. Tìm hiểu kĩ đề tránh được tình trạng lạc đề, xa đề, thừa ý, thiếu ý trong bài làm.
 Vì thế nhận diện đề là khâu hết sức quan trọng trong quy trình làm văn. Nếu nhận diện sai, bài làm sẽ sai. Đối với học sinh những lỗi sai về nhận diện đề thường là:
 - Lạc đề: ... hiều khía cạnh, nhiếu mức độ,  cho nên luận chứng đưa ra phải nhiều mặt, nhiều khía cạnh, bao quát được toàn bộ vấn đề. Nếu không vấn đề được trình bày sẽ mắc thiếu sót, phiếm diện; luận cứ, luận điểm sẽ khó đứng vững vì thiếu căn cứ đầy đủ.
 Khi một luận điểm đưa ra liên quan đến nhiều mặt, nhiều vấn đề thì phải huy động nhiều luận chứng thuộc nhiều bình diện, nhiều phạm vi, nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong văn chứng minh. Không bỏ sót những luận chứng cần thiết, nhất là những luận chứng có giá trị, nhiều ý nghĩa.
Chọn lọc và sắp xếp luận chứng.
 Trong những dẫn chứng phong phú thuộc nhiều phạm vi, nhiều lĩnh vực, có những dẫn chứng cùng một ý nghĩa, có giá trị tương đương nhau, phải chọn lọc để có những dẫn chứng tiêu biểu, có ý nghĩa mang tính khái quát, đại diện, chứ không phải dẫn chứng tràn lan, dù đó là dẫn chứng hay.
 Nêu luận chứng để chứng minh cho luận điểm, luận chứng cần chú ý đến sự hài hòa, cân đối trong toàn bộ bài văn, tránh chất dồn vào phần này để phần khác sơ sài, nghèo nàn, thiếu hụt. Cũng nên tránh những dẫn chứng quá quen thuộc, sáo mòn, ít mang ại hiệu quả.
 Luận chứng cần có tính hệ thống. Tùy theo những mục tiêu cần chứng minh, giải thích, phân tích,  có thể bố trí các luận chứng theo trình tự thích hợp.
III. NGÔN NGỮ TRONG VĂN NGHỊ LUẬN.
 Văn nghị luận đòi hỏi việc sử dụng từ ngữ phải chính xác, khoa học. Vì vậy ngôn ngữ trong văn nghị luận có những đặc điểm sau đây:
 1. Về mặt từ ngữ: 
 Văn nghị luận vừa mang tính chất trừu tượng, dùng nhiều từ Hán -Việt lại vứa mang tính cụ thể, gợi cảm. Nhờ vậy mà bài văn giàu hình tượng, có sức thyết phục, hấp dẫn người đọc. Ngôn ngữ văn nghị luận dù được gọt giũa và mang tính khái niệm truu2 tượng nhưng vẫn là ngôn ngữ toàn dân.
 Trong văn nghị luận, câu văn có tính cân đối, văn nghị luận thường sử dụng điệp từ, điệp ngữ, câu hỏi,  đọc lên có ngữ điệu trang trọng, thiết tha, hấp dẫn. Phép điệp từ, điệp ngữ thường được dùng phối hợp với phép lặp cấu trúc cú pháp và phép đối, ngoài tác dụng nhấn mạnh, tô đậm, gây cãm giác tăng tiến còn tạo được nhịp điệu và âm hưởng cho câu văn, tạo sự trang trọng, đĩnh đạc hoặc thiết tha hùng hồn.
 Ngoài ra văn nghị luận hấp dẫn người đọc, người nghe bằng ngôn ngữ logic và ngôn ngữ truyền cảm. Muốn có ngôn ngữ truyền cảm gây lôi cuốn, hấp dẫn và thuyết phục người đọc, trong bài văn nghị luận ta nên dùng các phép ngôn từ từ vựng đó là dùng từ, đặt câu có hình ảnh, có ngữ điệu và gợi cảm.
Ví dụ: 
 “ Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu.”
 (Thép Mới)
 2. Về mặt ngữ pháp:
 Để đảm bảo tính chính xác, rõ ràng, câu văn nghị luận hướng về cấu trúc ngữ pháp chuẩn. Câu thường có đủ thành phần, quan hệ giữa các vế rành mạch. Văn nghị luận hầu như không sử dụng câu đặc biệt. Văn nghị luận thường sử dụng câu ghép với những cặp liên từ hô ứng và phụ thuộc
Ví dụ: tuy nhiên  nhưng, vì  cho, nếu  thì, 
 Trong cách liên kết câu và liên kết đoạn văn, văn nghị luận thường sử dụng những liên từ, liên ngữ rất da dạng và phong phú. Ví dụ: nhìn chung, xét cho cùng, tuy nhiên, quả nhiên, như vậy,  thường dứng ở đầu câu văn và cuối đoạn văn. Văn nghị luận cũng sử dụng những quán ngữ biểu hiện các phương diện khác nhau của nhận thức như: chủ yếu là, về cơ bản, mặt này, mặt khác, một là, hai là, nói chung, nói riêng, 
 3. Đoạn văn nghị luận: 
 Một ý trong đoạn văn nghị luận thường được triển khai thành nhiều câu theo một trật tự hợp lí, mạch lạc, ta có đoạn văn nghị luận. Thông thường một đoạn văn gồm ba phần: 1 câu mở đoạn, 2 hay nhiều câu phát triển đoạn (thân đoạn) và một câu kết thúc.
 Tóm lại ngôn ngữ trong văn nghị luận cần rõ ràng, chính xác trong cách dùng từ, đặt câu. Nó phải là ngôn ngữ vừa trừu tượng trí tuệ, khái quát vừa cụ thể trong sáng gợi cảm để thuyết phục, kích thích người đọc, người nghe. Song ngôn ngữ trong văn nghị luận cần được hấp dẫn, lôi cuốn bằng những từ ngữ có tính hình tượng và sức biểu cảm bằng sự biến đổi linh hoạt của cách diễn đạt.
IV. CHẤT VĂN CHƯƠNG CỦA BÀI VĂN.
 Một nhà phê bình văn học có uy tín nói rằng: “ Giải một bài toán, tìm được đáp số là xong, nhưng làm một bài văn, tìm được đáp số công việc xem như mới được một nửa.” Bài văn hay là bài văn diễn đạt tốt “đáp số”. Thực ra đối với việc làm văn, nếu không diễn đạt tốt “đáp số” (nhận thức và cảm thụ) thì kết quả vẫn chỉ là một cái gì còn ẩn kín trong đầu người viết mà thôi. Đọc một bài văn nghị luận thấy hay. Nhưng hay ở chỗ nào? Vì sao như thế lại hay? Nói cho rõ ra đã khó, đặt bút xuống viết diễn tả hết những cảm nghĩ của mình để người đọc cảm thấy lòa hay lại càng khó hơn.
 Phần lớn HS trong viết văn, nhất là văn nghị luận chắc chắn gặp phải tình huống: Ý đã có rồi, đã có dàn ý nhưng sao diễn đạt không được. Nhiều em viết xong đọc lại thấy ý lại rời rạc, lời lẽ nhạt nhẽo không có chất văn chương. Thế là các em thiếu tự tin luôn dựa vào các bài mẫu. Lâu dần sự rung cảm với tác phẩm văn học bị thui chột, văn chương các em trở nên sáo rỗng, vô hồn. Vậy làm thế nào để các em viết một bài văn vừa có ý, vừa có hồn, vừa mang đậm dấu ấn các nhân? Muốn làm được điều này người GV cần phải:
 - Cần làm cho các em rung cảm thật sự trước đối tượng làm văn.
 - Những tiết giảng văn GV phải thổi được linh hồn tác phẩm vào tâm hồn của các em, thắp lên trong lòng các em ngọn lửa của sự đồng cảm, để các em biết vui buồn, hờn giận theo từng số phận cuộc đời trong tác phẩm.
 - Tạo cho các em có thói quen họcthuộc lòng những điều cần ghi nhớ. Bởi vì chính học thuộc lòng giúp ích cho sự võ trang kiến thức và khả năng sáng tạo rất nhiều.
 - Khơi dậy trong bản thân các em lòng đam mê đọc sách, nhất là những tác phẩm văn học xuất sắc về nội dung và hình thức.
CHƯƠNG II: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
 Sau khi áp dụng một số kĩ năng nêu trên trên hai lớp 9A1 và 9A2, tôi khảo sát trên 3 bài viết ( Viết bài tập làm văn số 5 ( nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống), Viết bài tập làm văn số 6 ( nghị luận văn học), Viết bài tập làm văn số 7 ( nghị luận văn học). Kết quả cho thấy kĩ năng viết văn nghị của học sinh ở hai lớp thực nghiệm có hiệu quả cao hơn so với lớp không thực nghiệm cụ thể:
Ơû lớp 9A3: không thực nghiệm:
Bài viết
Giỏi
Khá 
Trung bình
yếu
Kém 
TB trở lên
Bài viết số 5
Bài viết số 6
Bài viết số 7
1
1
1
5
22
26
26
10
6
2
1
1
Ơû lớp 9A1: thực nghiệm:
Bài viết
Giỏi
Khá 
Trung bình
yếu
Kém 
TB trở lên
Bài viết số 5
Bài viết số 6
Bài viết số 7
1
1
2
4
6
6
21
20
23
7
6
2
Ơû lớp 9A2: thực nghiệm:
Bài viết
Giỏi
Khá 
Trung bình
yếu
Kém 
TB trở lên
Bài viết số 5
Bài viết số 6
Bài viết số 7
2
3
3
4
5
5
18
18
22
8
6
2
 Như vậy hiệu quả của việc áp dụng một số kĩ năng trên cho học sinh đã thấy rõ. Tôi mạnh dạn trình bày những kinh nghiệm của mình đã chắt lọc được để đồng chí, đồng nghiệp và học sinh cùng tham khảo góp ý.
PHẦN III: KẾT LUẬN
 Xuất phát từ thực tế học sinh ở trường THCS Lộc Quang còn một số hạn chế trong viết văn nghị luận nên tôi quyết định chọn đề tài MỘT SỐ KĨ NĂNG ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH KHỐI 9 để nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu tôi đã rút ra một số kĩ năng, kinh nghiệm và bước đầu thấy hiệu quả của việc áp dụng những kinh nghiệm, kĨ năng ấy. Mặc dù những kinh nghiệm, kĩ năng tôi đưa ra vẫn còn ít và mang tính chủ quan nhưng tôi vẫn tin tưởng và chờ đợi ở sự hữu ích của nó cũng như ý kiến phản hồi từ phía các ban, ngành và bạn đồng nghiệp.
 Lộc Quang, ngày 25 tháng 4 năm 2008
 Giáo viên thực hiện
 LÊ KHÁNH LIÊN
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
&
Sách giáo khoa Ngữ văn 7, 8, 9 tập 1, 2.
Sách giáo viên Ngữ văn 7, 8, 9 tập 1, 2.
Rèn kĩ năng làm văn nghị luận – Tác giả: Đoàn Thị Kim Nhung.
Muốn viết được bài văn hay – Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên).
Bí quyết giỏi Văn – Vũ Ngọc Khánh.
MỤC LỤC
*****J*****
TÊN MỤC LỤC
TRANG
Phần I: Mở đầu.
Lí do chọn đề tài.
Nhiệm vụ của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu.
1
1
2
3
3
Phần II: NỘI DUNG – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KĨ NĂNG ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH KHỐI 9
Nhận diện đề.
Xây dựng lập luận cho bài văn.
Ngôn ngữ trong văn nghị luận.
Chất văn chương cảu bài văn.
CHƯƠNG II: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM.
4
4
4
7
14
16
17
PHẦN III: KẾT LUẬN
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
19
HẾT
Nhận xét, đánh giá của tổ chuyên môn:
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
Nhận xét, đánh giá của hội đồng KHGD nhà trường:
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
Nhận xét, đánh giá của hội đồng KHGD nhà trường:
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
Nhận xét, đánh giá của hội đồng KHGD phòng GD – ĐT Lộc Ninh:
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
Nhận xét, đánh giá của hội đồng KHGD sở GD – ĐT Bình Phước:
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.
...
.

Tài liệu đính kèm:

  • dockhoi 9 cuc hay.doc