Có câu nói:”Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi người!”Vì lòng yêu cha,một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận người khác làm bố,cho dù bị đánh.Vì lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở sa trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa con gái bé bỏng.Có người nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”.Song nếu đọc truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,có thể bạn sẽ phải có cái nhìn khác mới mẻ và chân thực hơn.Câu chuyện khắc họa hình ảnh một nhân vật bé Thu đầy ấn tượng và tinh tế, hơn thế lại ca ngợi tình cha con thiêng liêng,vĩnh cửu dù trong chiến tranh.
Nguyễn Quáng Sáng sinh năm 1933 ở An Giang.Thời kỳ kháng chiến chống Pháp ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.Sau năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết vănn.Có lẽ vì sinh ra va hoạt động chủ yếu ở miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ.Các tác phẩm chính là Chiếc lược ngà(1968),Mùa gió chướng(1975),Dòng sông thơ ấu(1985), Nguyễn Quang Sáng có lỗi viết văn giản dị,mộc mạc nhưng sâu sắc,xoay quanh những câu truyện đời thường nhưng ý nghĩa.Chiếc lược ngà viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ chống Mỹ ,là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng, khẳng định nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc,xây dựng tình huống bất ngờ và ca ngợi tình cha con thắm thiết.Vẫn viết về một đề tài dường như đã cũ song truyện mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.
Câu truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu.Khi ông Sáu đi kháng chiên chống Pháp,lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi.Khi ông có dịp thăm nhà thì con gái đã lên 8 tuổi.Song bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như bức ảnh chụp chung với má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một tiếng “Ba”. Đến khi bé Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông hứa sẽ mang về tặng con một cái lược ngà.Những ngày chiến đầu trong rứng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho con gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh.Trước khi nhắm mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình.
Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà Có câu nói:”Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi người!”Vì lòng yêu cha,một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận người khác làm bố,cho dù bị đánh.Vì lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở sa trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa con gái bé bỏng.Có người nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”.Song nếu đọc truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,có thể bạn sẽ phải có cái nhìn khác mới mẻ và chân thực hơn.Câu chuyện khắc họa hình ảnh một nhân vật bé Thu đầy ấn tượng và tinh tế, hơn thế lại ca ngợi tình cha con thiêng liêng,vĩnh cửu dù trong chiến tranh. Nguyễn Quáng Sáng sinh năm 1933 ở An Giang.Thời kỳ kháng chiến chống Pháp ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.Sau năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết vănn.Có lẽ vì sinh ra va hoạt động chủ yếu ở miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ.Các tác phẩm chính là Chiếc lược ngà(1968),Mùa gió chướng(1975),Dòng sông thơ ấu(1985),Nguyễn Quang Sáng có lỗi viết văn giản dị,mộc mạc nhưng sâu sắc,xoay quanh những câu truyện đời thường nhưng ý nghĩa.Chiếc lược ngà viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ chống Mỹ ,là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng, khẳng định nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc,xây dựng tình huống bất ngờ và ca ngợi tình cha con thắm thiết.Vẫn viết về một đề tài dường như đã cũ song truyện mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc. Câu truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu.Khi ông Sáu đi kháng chiên chống Pháp,lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi.Khi ông có dịp thăm nhà thì con gái đã lên 8 tuổi.Song bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như bức ảnh chụp chung với má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một tiếng “Ba”. Đến khi bé Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông hứa sẽ mang về tặng con một cái lược ngà.Những ngày chiến đầu trong rứng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho con gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh.Trước khi nhắm mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình. Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc.Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” ,hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,mạng mẽ.Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”,song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”.Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má.Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh,nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ.Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh,nhiễu sách mà là sự kiên định,thẳng thắn ,có lập trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này. Nhưng xét cho cùng,cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc,tình cảm có sâu sắc,mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy.Khi bị ba đánh,bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy,bước ra khỏi mâm”.Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”.Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu,giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi,nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi “Chiều đó,mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”,cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi. Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm.Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình ,nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba”,”vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng gọi cha.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó.Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên,ngây thơ:Nhân vật bé Thu. Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu,truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ca ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ.Bên cạnh hình ảnh bé Thu,hình ảnh ông Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh,vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu,bỏ lại gia đình,quê hương;và đặc biệt ông là người yêu con tha thiết.Sau ngần ấy năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng cha.Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không nhận cha. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì dường như sự lạnh lùng,bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong lòng ông.Còn gì đau đớn hơn một người cha giàu lòng thương con mà bị chính đứa con gái ấy từ chối.Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay ông dồn nén,chứa chất trong lòng.Có lẽ ông biết rằng mình cũng không đúng vì suốt bảy năm trời chẳng thể về thăm con,chẳng làm gì được cho con,nên nhân những ngày này ông muốn bù đắp cho con phần nào.Giá gì không có cái bi kịch ấy,giá gì bé Thu nhận ra ông Sáu sớm hơn,thì có thể ông Sáu và bé Thu sẽ có nhiều thời gian vui vẻ,hạnh phúc.Nhưng sợ rằng một câu truyện như vậy sẽ chẳng thể gây được cảm động cho người đọc với những xúc cảm khác nhau,có lúc dồn nén,có lúc lại thương xót,có lúc lại “mừng mừng tủi tủi” cho ông Sáu khi mà bé Thu cất tiếng gọi “Ba”,tiếng gọi muộn màng nhưng lại có ý nghĩa đẹp đẽ!Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường,quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình.Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả,song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự!(“Không ghìm được xúc động và không muôn cho con thấy mình khóc,anh Sáu một tày ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt”).”Ba về!Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây pút cha con từ biệt.Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất,cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông.Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng,cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con.”Khi ông Sáu tùm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”,” Ông thận trọng tỉ,mỉ”,”Ông gò lưng khắc từng nét”Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm.Tất cả tình yêu,nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình.Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình,dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời.Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi,móc lấy cây lược,đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì,chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con.Tình cảm của ông sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc. Người mất,người còn nhưng kỷ vật duy nhất,gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại,chiếc lược ngà vẫn còn ở đây.Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm,kỳ diệu,là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu;và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con.Có thể chiếc lược ấy chưa chải đượcmais tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu ... t về chiến tranh vừa đầy tính ác liệt vừa đầy tính nhân văn như vậy. Hơn nữa, lần đầu tiên công chúng biết đến chi tiết này là biết qua phim, nên hiệu quả nghệ thuật đã lên tột đỉnh. Tôi có đọc kịch bản này, nhưng kịch bản mà tả cái sự bỏ con trong túi nhựa dìm xuống nước tránh đạn máy bay nó vòng vo lắm, chỉ để cho đạo diễn làm phim. Quả thật cái chi tiết độc này chỉ có phim mới lên hết ý, lên trực tiếp, đi thẳng vào tim óc người xem bằng hình, chứ chữ thì còn quanh co lắm người đọc mới hình dung ra. Chi tiết này chính tác giả cũng biết giá trị của nó nên ông “ém” lại cả chục năm trời, không hé răng dù với những bạn viết thân thiết và cận kề hàng ngày, vì các bạn văn thường “xuất bản mồm” tác phẩm của mình cho bạn bè để lấy thêm hứng, để “tẩm ướp thêm gia vị” trước khi cho tác phẩm của mình “lên bếp xào nấu”. Chẳng hạn như tiểu thuyết Đất lửa, tôi được nghe tác giả “xuất bản mồm” chương đầu trước khi đọc nó trên giấy Còn Cánh đồng hoang thì đến khi xem buổi chiếu duyệt phát hành, tôi mới biết và lập tức “tâm phục khẩu phục” nên ôm lấy đạo diễn Hồng Sến và nói đùa: “Ông với ông Sáng sắp sẵn rổ mà đi lượm huy chương”. Trở lại với tiểu thuyết Đất lửa (tập I). Bạn đọc biết nhà văn Nguyễn Quang Sáng qua nhiều truyện ngắn nổi tiếng và qua một số tiểu thuyết về sau này như Mùa gió chướng, Dòng sông thơ ấu Nhưng nhiều bạn văn, nhất là những bạn lớn tuổi nói rằng Đất lửa mới là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của Nguyễn Quang Sáng. Nhận xét này là xác đáng. Đất lửa ra mắt bạn đọc vào năm 1963. Phải nói vào thời gian đó, tiểu thuyết khoảng ba bốn trăm trang còn hiếm, và mỗi cuốn sách ra là một sự kiện văn học, hơn nữa nội dung và nghệ thuật của Đất lửa lại đúng là một sự kiện văn học. Cuốn sách viết về vùng Hòa Hảo miền Tây Nam bộ trong những ngày đầu cách mạng và kháng chiến chống Pháp với những vấn đề dữ dội và gai góc. Chương 1 dựng lên cảnh pháp trường xử chém Sáu Sỏi, một tín đồ thấy mình đã đi lầm đường và muốn bổn đạo quay về chánh nghĩa, pháp trường là gốc cây gừa bên bến nước, với tiếng tù và “bun bun”, tiếng vó ngựa sải nước kiệu lộp cộp, tiếng hát Hòn Vọng phu u buồn to nhỏ và lệch lạc khác nhau của đội quân tín đồ và dòng sông hổn hển với những ngọn sóng vỗ bờ ọp ẹp Những chi tiết vừa nêu thật hết sức ấn tượng, rất Nam bộ và cũng là những chi tiết rất đặc sắc của tiểu thuyết. Tôi nghe anh Sáng kể chương này từ trước, nhưng khi đọc sách, thấy hay hơn hẳn và nhớ mãi cho đến tận bây giờ Vậy mà Đất lửa có số phận khác hơn những quyển tiểu thuyết khác của Nguyễn Quang Sáng. Tôi thường nghĩ đến chuyện duyên may rủi bên cạnh tài năng của người viết. Hình như là những tác phẩm hay có số phận như những cô gái quá đẹp? Chẳng vậy mà Phá vây của Phù Thăng, Vòong Dìn của Hoài Giao và nhiều tác phẩm khác không thể kể hết tên của bạn bè đều có số phận long đong dẫn đến số phận long đong của người viết như trường hợp nhà văn Vũ Bão chẳng hạn. Đất lửa cũng gặp “sự cố”. Sau khi sách ra chỉ vài tuần thì trên báo Văn nghệ có bài của tác giả “Vì sao tôi viết Đất lửa”. Bạn đọc hơi lạ: dư luận chưa lên tiếng, các nhà phê bình có người chưa đọc mà tác giả đã lên tiếng? Nhưng bên trong, có chuyện này: có người sắp “làm thịt” Đất lửa. Vì trong tập 1 có chỗ viết về một anh bộ đội đốt nhà dân. Viết về tôn giáo, nhiều vấn đề gai góc mà lại sinh chuyện nữa Gay go đây, nhiều bạn đã “chết” vì những chuyện bị “bắt giò” như vậy Tôi tự hỏi: cuốn sách hay quá nhưng vì sao sinh chuyện thế nhỉ? Trả lời câu này không dễ, nhưng không phải là không thể trả lời. Vấn đề là thời gian Nhưng Nguyễn Quang Sáng luôn có “quới nhơn phù trợ”, gay go gì rồi cũng đều qua. Tôi đọc bài viết chỉ chú ý có một chi tiết: anh bộ đội đốt nhà dân đó là một tên gián điệp! À, ra vậy! Xin quí vị chờ xem tập II. May quá và cũng nhẹ nhàng quá, bạn bè thở phào. Và “sự cố” qua đi, nhưng tiếc là cuốn sách hay mà không để lại ấn tượng đậm đà trên báo chí. Đến nay, Đất lửa được in lại trong Nguyễn Quang Sáng, tác phẩm được Giải thưởng Hồ Chí Minh. Thế nhưng, do nhiều nguyên nhân, tập II đến bây giờ vẫn chưa ra. Tuy nhiên, chỉ với tập I, Đất lửa đã ghi một dấu ấn là cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng, và một thành tựu đáng ghi nhận của văn chương Việt Nam. * Thật ra, bất cứ người viết văn nào cũng đều biết “chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn” và không ít tác phẩm của các nhà văn Việt Nam đều có những “chi tiết nhỏ” như vậy. Nhưng vì sao “chi tiết nhỏ” của họ chưa làm nên tác phẩm lớn, nói cách khác, tác phẩm họ chưa dành được vị trí xứng đáng? Trong văn chương, vừa có vấn đề tài năng vừa có cái duyên may rủi. Ví dụ một tác phẩm ra đời trước đây ba bốn chục năm có thể bị đánh tơi bời nhưng sau này người ta thấy chẳng có gì đáng “đánh đòn hội chợ” như vậy, hoặc một tác phẩm hay lại bị bỏ sót hoặc cố tình lờ đi... Cho nên, ngoài yếu tố tài năng của tác giả, còn nhiều yếu tố khác. Ai cũng biết cái khâu liên hoàn này: tác giả, tác phẩm, thời đại, công chúng Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng cũng như của nhiều nhà văn nổi tiếng khác đều có cơ duyên hội tụ khá đầy đủ của những yếu tố này. Nếu quan sát kỹ để lý giải câu hỏi trên, thì thấy các “chi tiết nhỏ” trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng vừa nằm trong thẩm mỹ chung lại nằm trong thẩm mỹ riêng của những năm tháng các tác phẩm đó ra đời và bắt được sự cộng hưởng của xã hội, tuy về sau, Nguyễn Quang Sáng cũng chứng tỏ tài năng của mình trong nhiều truyện khác như Tôi thích làm vua, Con mèo Fujitav. v, nhưng bạn đọc vẫn biết Nguyễn Quang Sáng như là nhà văn xuất sắc viết về kháng chiến. Đó là những năm cuối thập niên 1960, khi cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam diễn ra quyết liệt; còn ở miền Bắc là cuộc chiến tranh phá hoại và cuộc tổng động viên sức người sức của cho miền Nam. Cả xã hội dốc hết tình cảm cho nhân vật mà mình yêu thương quí mến nhất lúc đó là người chiến sĩ giải phóng, là người du kích miền Nam. Về bản chất, các nhân vật đó là những nông dân nên mọi xúc cảm có nguồn gốc nông dân đều được sự cộng hưởng của toàn xã hội, cái hay của một tác phẩm văn chương cộng hưởng với độ rung cảm thẩm mỹ của xã hội nên tác phẩm cắm được những cái mốc. Cũng là tác phẩm văn chương, nhưng viết về cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, chi viện miền Nam như Thung lũng Cô-tan của Lê Phương miêu tả cuộc sống và chiến đấu của những người mở đường Hồ Chí Minh cho xe pháo và những đội quân lớn vào Nam, mà nhân vật chủ yếu là những trí thức, kỹ sư, công nhân; sách ra trong những ngày chống chiến tranh phá hoại nên có tiếng vang lớn ở miền Bắc, nhưng về sau lại rơi vào quên lãng vì không có sự cộng hưởng xã hội, trong đó yếu tố thẩm mỹ có nguồn gốc nông dân là một nguyên nhân quan trọng. Đó là chưa kể đến những cuốn tiểu thuyết khác như cuốn tiểu thuyết viết trực tiếp về Ngã ba Đồng Lộc của Nguyễn Gia Nùng mà một biên tập viên nhà xuất bản – hỡi ôi – đã làm mất bản thảo viết tay duy nhất (?). Và đến một lúc nào đó, người ta sẽ đặt câu hỏi: Sao chẳng có tác phẩm văn chương nào viết về cuộc chống chiến tranh phá hoại không kém phần ác liệt và hào hùng, cũng như sự hy sinh thầm lặng mà không kém phần vĩ đại của nhân dân miền Bắc, một nửa đất nước góp phần quyết định cho chiến thắng chung? Thật ra, đúng như một nhà thơ nói về tác phẩm văn học của ta “sách hay thời nào cũng có, vấn đề là ta đọc như thế nào”. Nếu biết đọc, biết trân trọng từng chi tiết nhỏ, biết chấp nhận những cảm xúc thẩm mỹ ngoài cảm xúc cũ, ta sẽ có nhiều tác phẩm, nếu không “lớn” thì cũng có giá trị, chứ không đến nỗi trắng tay mà than thở rằng “chưa có tác phẩm xứng đáng”... Nói về chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn thì gần đây, có một ý kiến đăng báo cho rằng tiểu thuyết (tức truyện gồm đoản thiên, trường thiên) là bịa để nói lên sự thật. Ý kiến này không ổn. Xưa nay, các nhà văn có nghề đều nói tiểu thuyết là bịa như thật. Đây mới là ý kiến xác đáng. Nhà văn có thể bịa ra tình huống, diễn tiến của truyện, nhưng chi tiết thì không thể bịa. Không thể bịa ra cái túi nhựa dìm con trẻ xuống nước để tránh đạn máy bay mà phải sống chết, phải lăn lộn ở Đồng Tháp Mười trong chiến tranh mới ra chi tiết ấy. Không thể bịa tiểu thuyết để nói lên sự thật mà phải từ sự thật bịa ra tiểu thuyết. Đây không phải chuyện chơi chữ. Về lý luận thì “bịa để nói sự thật” xuất phát từ triết học duy tâm, trái với triết học duy vật, là sự vật phải có trước rồi mới bịa truyện được. Về thực tiễn, nó làm cho người sáng tác và người thưởng thức lạc hướng, bỏ sự thật ngoài đời để chạy theo cái gọi là sự thật nhưng thực chất là do người viết bịa ra. Cái túi nhựa cứu trẻ con trong phim Cánh đồng hoang do Nguyễn Quang Sáng viết kịch bản, là một chi tiết thật, không ai có thể bịa được. Nó là chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn. Và người sáng tác cũng như người thưởng thức hay phê bình, lý luận không nên bỏ “sự thật thật” mà theo “sự thật bịa” do người viết nghĩ ra Nói về tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng, tôi vẫn đặt chúng trong bối cảnh hôm nay chứ không phải nhắm mắt mà khen lấy được. Tôi biết trong những năm đất nước đổi mới sau này thì sự cộng hưởng giữa tác giả, tác phẩm, thời đại, công chúng đã có phần rời rạc. Rồi nhiều xu hướng, nhiều “chủ nghĩa” trong văn chương thế giới tràn vào. Nhiều người quay lưng hoặc chê bai tác phẩm kháng chiến và những chuẩn mực thẩm mỹ cũ. Tình hình này có mặt tích cực nhưng cũng có mặt tiêu cực. Tích cực là hòa nhập, bắt kịp xu hướng văn chương thế giới. Nhưng tiêu cực thì những người chưa sống nhiều, đọc nhiều, tiếp xúc nhiều với các xu hướng văn chương vừa được du nhập hoặc đọc nhiều văn chương xu hướng mới mà chưa đọc hết văn chương nhân loại từ các chủ nghĩa cổ điển, lãng mạn đến hiện thực phê phán, hiện thực huyền ảo, v.v nên chưa thấy rõ. Nhưng có một nhà văn lớn tầm cỡ thế giới sống ở một đất nước đã từng kinh qua những biến động như đất nước ta là Chingiz Aitmatov trước khi mất không lâu đã thấy rất rõ mặt tiêu cực của những chủ nghĩa mới này, và đưa ra nhận xét rất đáng cho ta suy nghĩ: “Chủ nghĩa hậu hiện đại (hậu mô-đéc) là một hiện tượng đáng ghê sợ, cách hiểu của chúng ta về cái thiện và cái ác đang phải chịu những thử thách nghiệt ngã.” (Phải là giá trị chung nhân loại – báo Văn nghệ 21-6-2008). Tôi thì nghĩ cái mới, cái lạ là những cái luôn cần có trong văn chương. Nhưng mới lạ là để làm cho con người ngày càng đẹp hơn, cao thượng hơn, để văn chương ngày càng hướng tới chân thiện mỹ - nhiệm vụ cốt lõi của văn chương - chứ không phải mới lạ là mục đích của văn chương. Vì vậy tôi nghĩ: khẳng định giá trị tác phẩm Nguyễn Quang Sáng hôm nay là một việc làm có ý nghĩa, cho dù xã hội đang chịu những thử thách nghiệt ngã vì có khi người ta nhìn nhầm, cho một nhà văn vẫn thường miêu tả chi tiết cái xấu, cái ác của con người là nhà văn lớn thì rốt cuộc thiện hay ác cũng rõ ra, ứng hiện vào trong xã hội. Aitmatov cảnh báo về việc lầm lẫn thiện ác, và người xưa nói “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” là có lý lắm vậy
Tài liệu đính kèm: