Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng kiểu dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ cho một tiết dạy

Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng kiểu dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ cho một tiết dạy

Trong nhà trường hiện nay, mục tiêu giáo dục tổng quát đã được xác định tương đối phù hợp với xu hướng tất yếu của thời đại. Bao gồm: năng lực, thái độ, kỹ năng, kiến thức, cách học,cách sống nhằm tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động sáng tạo, có năng lực tự học, năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn. Muốn đào tạo ra những con người năng đông, tự chủ, sáng tạo thì phương pháp giáo dục phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và phát triển khả năng suy nghĩa và làm một cách tự chủ, năng động sáng tạo ngay trong học tập, lao động ở nhà trường.

Trong nhà trường, điều chủ yếu là không phải nhồi nhét kiến thức mà là giáo dục cho học sinh phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, giải quyết vấn đề một cách tích cực, chủ động, sáng tạo. Có như vậy chúng ta mới đào tạo được những con người mới đáp ứng cuộc cách mạng về khoa học, công nghệ, đáp ứng xu thế phát triển của thời đại. Sự phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử đòi hỏi phải đổi mới mục tiêu giáo dục. Trong những năm qua nghành giáo dục đã chăm lo phát triển và đổi mới phương pháp giáo dục ở mức độ thích hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế của đất nước đang hội nhập với WTO, giáo dục không thể đứng ngoài tình hình đó. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội Việt Nam hiện nay thì nhiêm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đặc biệt là thế hệ trẻ – chủ nhân tương lai của đát nước. Đây là thử thách lớn lao đồng thời cũng là cơ hội lớn cho thế hệ trẻ nước nhà. Để làm được việc đó nhân tố quyết định cho sự thành công là phẩm chất năng lực của người Việt Nam, là trình độ dân trí, nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước. Vì vậy vai trò của giáo dục hiện nay có ý nghĩa quan trọng để xã hội phát triển, đảm bảo cho sự phát triển của khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Do đó giáo dục phải tiếp tục đổi mới phương pháp cho phù hợp với nhu cầu của xã hội.

Năm học 2007- 2008 là năm học huyện Tiên Lãng tiếp tục là năm “ Hội nhập – phát triển – bền vững” và hưởng ứng phong trào “hai không” với năm nội dung. Toàn thể giáo viên đã hăng hái trong phong trào đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng khoa học công nghệ tin học trong dạy học. Hưởng ứng phong trào đó là một giáo viên trực tiếp tham gia công tác giảng dạy tôi xin mạnh dạn trình bày một vài suy nghĩ về một phương pháp dạy học môn Toán ở trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong dạy học đó là “ Áp dụng kiểu dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ cho một tiết dạy”.

 

doc 17 trang Người đăng minhquan88 Lượt xem 867Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng kiểu dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ cho một tiết dạy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý do chọn đề tài.
Trong nhà trường hiện nay, mục tiêu giáo dục tổng quát đã được xác định tương đối phù hợp với xu hướng tất yếu của thời đại. Bao gồm: năng lực, thái độ, kỹ năng, kiến thức, cách học,cách sống nhằm tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động sáng tạo, có năng lực tự học, năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn. Muốn đào tạo ra những con người năng đông, tự chủ, sáng tạo thì phương pháp giáo dục phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và phát triển khả năng suy nghĩa và làm một cách tự chủ, năng động sáng tạo ngay trong học tập, lao động ở nhà trường.
Trong nhà trường, điều chủ yếu là không phải nhồi nhét kiến thức mà là giáo dục cho học sinh phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, giải quyết vấn đề một cách tích cực, chủ động, sáng tạo. Có như vậy chúng ta mới đào tạo được những con người mới đáp ứng cuộc cách mạng về khoa học, công nghệ, đáp ứng xu thế phát triển của thời đại. Sự phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử đòi hỏi phải đổi mới mục tiêu giáo dục. Trong những năm qua nghành giáo dục đã chăm lo phát triển và đổi mới phương pháp giáo dục ở mức độ thích hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế của đất nước đang hội nhập với WTO, giáo dục không thể đứng ngoài tình hình đó. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội Việt Nam hiện nay thì nhiêm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đặc biệt là thế hệ trẻ – chủ nhân tương lai của đát nước. Đây là thử thách lớn lao đồng thời cũng là cơ hội lớn cho thế hệ trẻ nước nhà. Để làm được việc đó nhân tố quyết định cho sự thành công là phẩm chất năng lực của người Việt Nam, là trình độ dân trí, nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước. Vì vậy vai trò của giáo dục hiện nay có ý nghĩa quan trọng để xã hội phát triển, đảm bảo cho sự phát triển của khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Do đó giáo dục phải tiếp tục đổi mới phương pháp cho phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Năm học 2007- 2008 là năm học huyện Tiên Lãng tiếp tục là năm “ Hội nhập – phát triển – bền vững” và hưởng ứng phong trào “hai không” với năm nội dung. Toàn thể giáo viên đã hăng hái trong phong trào đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng khoa học công nghệ tin học trong dạy học. Hưởng ứng phong trào đó là một giáo viên trực tiếp tham gia công tác giảng dạy tôi xin mạnh dạn trình bày một vài suy nghĩ về một phương pháp dạy học môn Toán ở trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong dạy học đó là “ áp dụng kiểu dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ cho một tiết dạy”.
Đây là những suy nghĩ chủ quan của bản thân, nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được những ý kiến đóng góp phê bình của các đồng chí đồng nghiệp để bản thân tôi rút ra được những kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.
một vài suy nghĩ về phương pháp dạy học hợp tác 
theo nhóm nhỏ đối với môn toán.
Cơ sở lý luận: Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và môn toán nói riêng đều xuất phát từ những quan niệm sau:
Mục tiêu giáo dục
Hoạt động cơ bản là dạy học, là hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Dạy học không chỉ cung cấp cho học sinh những tri thức, kiến thức cơ bản mà còn phải tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Học sinh càng tham gia tích cực, chủ động vào hoạt động học tập thì phẩm chất, năng lực cá nhân càng sớm được hình thành và phát triển hoàn thiện. Tính năng động, sáng tạo, tự chủ là những phẩm chất của con người rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại, những phẩm chát đó cần phải được hình thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Yêu cầu của việc giảng dạy
Trước đây trong giảng dạy người thầy giáo chỉ chú trọng việc truyền đạt tri thức khoa học của bộ môn mà coi nhẹ phương pháp học tập nghiên cứu mang tính đặc thù của môn đó. Ngày nay cùng với tri thức khoa học của bộ môn, cùng với sự hỗ trợ của thiết bị dạy học hiện đại, người thầy phát huy tối đa năng lực tự chủ của học sinh bằng cách hướng dẫn, điều khiển học sinh tự tìm ra nội dung kiến thức trọng tâm của bài học bằng chính khả năng của mình đây là điều có ý nghĩa to lớn với nhiệm vụ học tập của mỗi người học sinh.
Năng lực cá nhân.
Việc đổi mới phương pháp dạy học phải phù hợp với sự phân hoá trong dạy học. Năng lực của học sinh trong một lớp không hoàn toàn giống nhau, việc phân hoá đối tượng, tiến tới cá nhân hoá trong dạy học là xu hướng tất yếu để đảm bảo sự phát triển tối ưu của mỗi học sinh.
Đặc trưng riêng của từng môn học
Mỗi môn học có đặc trưng riêng, bộ môn toán là môn học giữ vai trò rất quan trọng, bởi toán học là công cụ giúp học sinh trong hoạt động học tập tốt các môn học khác, góp phần phát triển tư duy sáng tạo và năng lực trí tuệ cho học sinh.
Vì vậy thông qua việc dạy học phải rèn khả năng suy nghĩ phương pháp học tập của học sinh. Việc tìm kiếm chứng minh một định lý, tìm lời giải của một bài toán có tác dụng lớn trong việc rèn luyện cho học sinh các phương pháp khoa học trong suy nghĩ, suy luận, trong giải quyết vấn đề, biết quan sát, tìm tòi, dự đoán một cách thông minh sáng tạo.
Tóm lại, dạy học là một hoạt động trọng yếu trong nhà trường, thông qua dạy chữ để dạy người. Đổi mới phương pháp dạy học là việc làm cần thiết để đáp ứng nhu cầu cần thiết của xã hội. Các nhà giáo dục đã khẳng định dạy học trong một nhóm đơn vị nhóm nhỏ là phù hợp với xu thế mới của thời đại. Việc vận dụng kiểu hoạt động theo nhóm nhỏ này có thể vận dụng cho tất cả các môn học trong đó vận dụng vào một giờ dạy Toán là một việc làm có cơ sở khoa học đáng tin cậy.
Cơ sở chỉ đạo xây dựng chương trình môn toán THCS
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới về mục tiêu cấp học đã nêu trong Luật giáo dục(1998) cần phải có một chương trình giáo dục phổ thông phù hợp với tình hình đất nước ta hiện nay. Đồng thời nhìn ra thế giới thì chương trình sách giáo khoa cũ của ta còn quá coi trọng về lý thuyết kinh viện hàn lâm nay được giảm tải về lý thuyết đó và tăng yêu cầu hoạt động thực hành cho học sinh. Nghĩa là: người học phải được tham gia tích cực chủ động vào các hoạt động tìm tòi kiến thức, phải được thực hành nhiều, làm việc nhiều. Từ đó nhân cách học sinh được bộc lộ. Từ các căn cứ trên, việc tổ chức cho học sinh học tập như thế nào cho hiệu quả là một vấn đề dược nhiều nhà giáo dục quan tâm.
Biện pháp thực hiện.
Sau đây tôi xin trình bày một số hướng chia nhóm nhỏ vào việc tổ chức hoạt động trong một tiết dạy.
Đối với một tiết dạy kiến thức mới.
Bước 1:- Giáo viên cần chuẩn bị xác định chính xác mục tiêu của bài dạy. Qua bài học học sinh nắm được các kiến thức cơ bản trọng tâm nào, kiến thức cần rèn luyện kỹ năng là gì và thái độ của học sinh sau khi học xong bài.
Từ đó tìm mối quan hệ giữa kiến thức được xây dựng trong bài với kiến thức cũ đã học trước đó.
Xác định và phân loại thành các dạng bài tập trong sách giáo khoa để giáo viên có hướng phân chia việc cho các nhóm hoạt động.
Bước 2: Khi đã xác định rõ mục tiêu cơ bản của bài học , giáo viên sẽ tìm tòi và định hướng cho việc phân nhóm nhỏ học tập.
Đối với học sinh.
Yêu cầu học sinh chuẩn bị kỹ bài học ở những tiết học truớc để góp phần xây dựng bài mới cho tốt hơn khi hoạt động theo nhóm nhỏ.
Giáo viên giao việc chuẩn bị ở nhà cho từng nhóm: mỗi nhóm cần xem xét một nội dung cụ thể nào đó. Tổng hợp các vấn đề của các nhóm thành một đợn vị kiến thức của bài học mới.
Đối với giáo viên: sau khi đã nghiên cứu kỹ mục tiêu bài dạy giáo viên cần chuẩn bị một số nội dung sau:
Nội dung kiến thức cần truyền thụ cho học sinh.
Chọn nội dung nào có thể cho học sinh hoạt động nhóm.
Chuẩn bị phương tiện cho bài dạy.
Lựa chọn hệ thống câu hỏi mềm dẻo, nhẹ nhàng gây hứng thú thi đua giữa các nhóm.
Đối với tiết luyện tập hay ôn tập chương.
Luyện tập hay ôn tập là khâu quan trọng giúp học sinh hoàn thiện tri thức mới và biết vận dụng tri thức đó để giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Trước hết ta xét đến cấu trúc các giờ luyện tập, ôn tập chương của sách giáo khoa mới được trình bày trên cơ sở hệ thống các câu hỏi và hệ thống bài tập. Toàn bộ phần lý thuyết được luyện tập bằng hệ thống câu hỏi, đòi hỏi học sinh phải có ý thức tự giác học và chuẩn bị truớc ở nhà. Do đó giáo viên cần tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm trong tiết luyện tập và ôn tập chương như thế nào?
Đối với học sinh.
Học sinh phải chuẩn bị kỹ các câu hỏi ở sách giáo khoa một cách đày đủ và chính xác ( các em có thể chưa thuộc các câu hỏi xong về nội dung thì phải nắm thật chắc).
Học sinh chuẩn bị chu đáo các bài tập được giao về nhà.
Đối với giáo viên.
Sau khi nghiên cứu kỹ sách giáo khoa để tiến hành việc luyện tập hay ôn tập trong một tiết học phải chuẩn bị những nội dung sau:
Việc ôn lý thuyết: Giáo viên cần làm phiếu trắc nghiệm in nội dung xoay quanh lý thuyết của tiết luyện tập hay ôn tập để kiểm tra nội dung kiến thức của nhiều bài hay cả một chương.
Tôi thấy rằng hệ thống bài tập trắc nghiệm giúp giáo viên kiểm tra những kiến thức cơ bản, tối thiểu của học sinh cần đạt được sau mỗi bài dạy.
Chẳng hạn sau khi ôn tập về biểu thức đại số, đơn thức, đa thức(đại số 7) giáo viên có thể phát phiếu học tập để các nhóm thảo luận trong 5 phút.
Đề bài
Đ
S
Các câu sau đúng hay sai:
5x là một đơn thức.
2x3y là một đơn thức bậc 3.
x2yz – 1 là đơn thức.
x2 +x3 là đa thức bậc 5
3x2- xy là đa thức bậc 2
3x4- x3-2 – 3x4 là đa thức bậc 3
Hai đơn thức sau là đồng dạng đúng hay sai?
2x3 và 3x2
(xy)2 và x2y2
x2y và x2y
–x2y3 và xy22xy
Đây là một bài trắc nghiệm có tính chất tổng hợp. Nó không chỉ dựa vào kiến thức đơn lẻ của từng bài mà yêu cầu học sinh phải có kiến thức tổng hợp. Đó là khả năng kết hợp nhiều khái niệm để trả lời. Vì vậy trong quá trình học tập đòi hỏi học sinh phải được hợp tác, bàn bạc để có kết quả đúng đắn. Cho nên giáo viên có thể cho học sinh hoạt động theo nhóm, nhóm này có khoảng 4 em là phù hợp.
Vấn đề luyện tập các bài tập thì tổ chức hoạt động nhóm như thế nào? Theo tôi giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ các bài tập trong một tiết học để phân ra thành các dạng bài tập và loại bài tập có thể cho học sinh làm việc theo nhóm.
Hoặc : Dạng bài tập tính toán.
Với tiết 64: Ôn tập chương IV (Đại số 7), ôn tập về cộng, trừ đa thức một biến. Sách giáo khoa ra bài tập sau(Bài 65/tr51).
Giáo viên đưa đề bài lên màn hình
Trong các số cho bên phải mỗi đa thức, số nào là nghiệm của đa thức đó.
A(x)= 2x- 6
B(x)= 3+ x
C(x)= x2- 3x+ 2
D(x) = x2 + x
-3; 0; 3
-; -; ;
-2;-1;1;2
;0;-1;1
Đối với bài tập này giáo viên có thể hướng dẫn chung cho học sinh có thể thay lần lượt các giá trị đã cho vào đa thức rồi tính giá trị của đa thức hoặc tìm x để đa thức bằng 0.
Giáo viên yêu cầu mỗi nhóm học sinh làm một câu; mỗi câu làm hai cách. Nhóm này có thể chia theo từng tổ, mỗi tổ 7 đến 8 em. Trong mỗi nhóm ... u.
GV: Bổ sung vào bên trái và bên phải của bảng như sau:
giá
trị (x)
98
99
00
101
102
Tần số
(n)
3
4
16
4
N=30
Gv: Bảng mà bạn vừa làm ở ?1 gọi là bảng phân phối thực nghiêm của dấu hiệu. Tuy nhiên để cho tiện, từ nay trở đi ta sẽ gọi đó là bảng “tần số” chính vì vậy mà chữ tần số dược đưa vào trong ngoặc.
Gv: Từ bảng 7 để lập được bảng tần số em đã làm như thế nào?
Gv: Để lập được bảng “tần số” từ bảng số liệu thống kê ban đầu ta phải tìm được các giá trị khác nhau của dấu hiệu và tần số tương ứng của mỗi giá trị đó.
Giáo viên:Theo em còn cách lập bảng “tần số” nào khác với bảng trên không?
Gv: Em hãy lên bảng lập bảng “tần số” theo cách của em?
Gv: Nhận xét bài làm của bạn?
Gv: Bảng “dọc” có nhiều thuận lợi cho việc tính toán các tham số của dấu hiệu mà ta sẽ học sau này.
Treo bảng 1/sgk – 4.
Từ bảng số liệu thống kê ban đầu em hãy lập bảng “tần số”.
Em có thể lập bảng ngang hoặc dọc tuỳ ý.
Gv: thu một vài bảng của hs chiếu lên màn hình để kiểm tra và nhận xét.
Gv: Nhận xét bài làm của bạn trên bảng?
HS đứng tại chỗ đọc ?1
Quan sát bảng7
Hoạt động nhóm ?1
( mỗi nhóm 4 em)
Đại diện một nhóm lên bảng trình bày.
Kết quả của hoạt động nhóm
98
99
100
101
102
3
4
16
4
3
HS trả lời
HS trả lời
HS lên bảng.
Dưới lớp thảo luận nhóm.
Cả lớp dùng biển xanh đỏ nhận xét (Xanh là đồng ý, Đỏ là không đồng ý).
HS hoạt động nhóm ( khoảng 3 em) làm ra giấy trong.
HS nhận xét
Lập bảng “ Tần số”
?1 (sgk)
Bảng“tần số”dạng “ngang”
Giá trị (x)
98
99
100
101
102
Ttần số
(n)
3
4
6
4
3
N=30
Bảng “Tần số” dạng “dọc”.
Giá trị (x)
Tần số (n)
98
3
99
4
100
16
101
4
102
3
N=30
Giá trị (x)
8
30
35
0
Tần số
(n)
2
8
7
3
N=
20
Bảng 8- Trang10/SGK
Hoạt đông 4: Chú ý
Gv: có 2 cách lập bảng “tần số” ở trên chính là nội dung của chú ý (a)
Gv: Có bao nhiêu đơn vị điều tra từ bảng 8?
Có bao nhiêu giá trị khác nhau của dấu hiệu, đó là những giá trị nào?
Qua bảng ta thấy có số các giá trị là 20 song chỉ có 4 giá trị khác nhau là 28,30,35,50.
-Theo em giá trị nào có tần số nhỏ nhất? Giá trị nào có tần số lớn nhất?
- Qua bảng ta thấy chỉ có 2 lớp trồng được 28 cây nhưng lại có 8 lớp trồng được 30 cây.
Gv: Số cây trồng được chủ yếu của các lớp là bao nhiêu?
Gv: Tại sao em lại khẳng định điều này?
Gv: Trên đây là những nhận xét sơ bộ về giá trị của dấu hiệu và còn nhiều nhận xét khác nữa. Những nhận xét này sẽ giúp các em làm bài tập ở những bài tiếp theo.Đó là nội dung của chú ý b/sgk
Gv: Qua bảng tần số giúp người điều tra được gì?
Gv: Bài học hôm nay em cần nắm được những nội dung gì?
Gv: Đưa nội dung bài học lên màn hình.
Gv: Bảng “tần số” là hình thức thu gọn có mục đích của bảng số liệu thống kê ban đầu, nó giúp cho việc sơ bộ nhận xét về giá trị của dấu hiệu được dễ dàng hơn, nó có tác dụng cho việc thống kê.
1 HS đọc chú ý (a)
HS trả lời
- Có 4 giá trị khác nhau của dấu hiệu đó là:28, 30, 35, 50
- Giá trị có tần số nhỏ nhất là 28; giá trị có tần số lớn nhất là 30.
Số cây trồng được chủ yếu của các lớp là 30 và 35 cây.
Vì giá trị 30 và 35 là khoảng giá trị có tần số lớn nhất tương ứng với 8 và 7.
- Bảng : “tần số” giúp người điều tra dễ có nhận xét chung về sự phân phối các giá trị của dấu hiệu và tiện lợi cho việc tính toán sau này.
- HS trả lời.
2. Chú ý
SGK- Trang 10
Ghi nhớ:SGK-trang10.
Hoạt đông 5: Luyện tập
Gv: Treo bảng phụ đề bài.
Giáo viên:Yêu cầu hs đọc bài
- Qua bảng 11 em hãy cho biết dấu hiệu cần tìm ở đây là gì?
- Lập bảng “tần số”?
Gv: thu khoảng 3 bài của hs chiếu lên màn hình để kiểm tra.
Gv: yêu cầu hs nhận xét baì làm của bạn.
Gv: Qua bảng “tần số” em hãy cho biết giá trị nào có tần số lớn nhất?
Vậy gia đình có 2 con chiếm tỷ lệ cao nhất.
Gv: Số gia đình 3 con trở lên là bao nhiêu?
Gv: Tỷ số giữa số gia đình đông con với tổng số 30 gia đình là bao nhiêu?
Gv: Em hãy dùng máy tính để tính xem số gia đình đông con chiếm tỷ lệ bao nhiêu?
Gv: Vậy qua bảng “tần số” này thì em rút ra nhận xét gì?
Gv: Theo em thôn này đã thực hiện tốt chủ truơng để phát triển dân số của Nhà Nước ta chua?
? ở địa phương em việc thực hiện chủ trương phát triển dân số như thế nào? Em hãy tập làm một nhà điều tra, điều tra xem 20 gia đình ở khu dân cư em đang sống, số con trong mỗi gia đình và lập bảng “tần số”, từ đó rút ra nhận xét về việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình ở địa phương mình?
( coi như BTVN)
Bài tập 5/sgk-11.
Gv: Tổ chức cho HS trò chơi toán học.
Gv tổ chức 2 đội chơi, mỗi đội gồm 5 em. Bảng danh sách của lớp có thống kê ngày, tháng, năm sinh được đưa lên màn hình và phát cho mỗi đội.
- Yêu cầu các đội thống kê các bạn có cùng tháng sinh thì xếp thành một nhóm các bạn hơn tuổi xếp ô năm trước, các bạn kém tuổi xếp ô năm sau.
- Trò chơi được thể hiện dưới dạng thi tiếp sức: cả hai đội có 1 bút, mõi bạn viết 3 ô rồi chuyển cho bạn sau viết tiếp.
- Đội thắng cuộc là đội thống kê nhanh và đúng theo mẫu.
Tháng
Năm trước
1
2
3
Tần số (n)
Gv đưa đáp án lên màn hình đe kiểm tra kết quả của hai đội. Công bố đội thắng và phát thưởng.
HS đọc
HS: đúng tại chỗ trả lời
Thảo luận nhóm và làm ra giấy trong.
HS nhận xét
HS trả lời
HS trả lời
HS trả lời:tỷ số giữa gia đình đông con với tổng số 30 gia đình là:
Nhắc lại nhận xét.
HS trả lời
4
5
6
7
8
9
Bài tập 6:SGK-11
a.Dấu hiệu: số con của mỗi gia đình
b.Bảng tần số
Giá
trị (x)
0
1
2
3
4
Tần số
(n)
2
4
17
5
2
N=30
Nhận xét
- Số con của các gia đình trong thôn từ 0 đến 4 con.
- Số gia đình có 2 con chiếm tỷ lệ cao nhất.
- Số gia đình có 3 con trỏ lên chỉ chiếm sấp xỉ 23,3%
Bài 5/SGK-11: Tổ chức cho hs trò chơi toán học.
10
11
12
Năm sau
N=
Hoạt đông 6: Hướng dẫn về nhà.
Gv: Đưa bài lên màn hình.
Bài tập điều tra về số con của mỗi gia đình trong 30 hộ ở khu dân cư em sông và lập bảng “tần số”, nêu nhận xét.
Trên đây là một ví dụ về một bài dạy minh họa bằng phương pháp tổ chức học sinh hoạt động theo nhóm. Tuy nhiên không phải tiết nào cũng có thể vận dụng tổ chức học sinh hoạt động theo nhóm, không phải cả giờ dạy mà còn phụ thuộc từng kiểu bài, từng nội dung để xây dựng cho thích hợp. Kết hợp với các phương pháp khác trong một giờ lên lớp làm cho tiết học trở nên sinh động hơn thoải mái hơn tạo cho học sinh sự hứng thú khi tiếp thu bài.
Bên cạnh đó việc tổ chức hoạt động theo nhóm nhỏ không phải không còn những mặt hạn chế: đó là học sinh có thể mất trật tự. Nếu người thầy không kiểm soát được mọi thành viên trong nhóm hoạt động thì có những thành viên của nhóm dựa dẫm vào bạn bè, ỷ lại không tham gia hoạt động mà vẫn có điểm cao. Từ đó dẫn tới việcđánh giá thiếu chuẩn xác tới từng đối tượng trong lớp.
Góp phần thành công cho giờ dạy tổ chực hoạt động cho nhóm ngoài sự cuốn học sinh hoạt động thì việc đánh giá cho điểm trong từng tiết học là nguồn động viên, khích lệ rất lớn đối với học trò. Nó hoàn toàn phù hợp với tâm sinh lý của học sinh.
Năm học 2006- 2007 tôi được phân công giảng dạy hai lớp toán 7. tôi nhận thấy đây là một thử thách rất lớn. Vì sách giáo khoa lớp 7 không những thay đổi mạnh mẽ về tư tưởng chỉ đạo mà thay đổi cả về cấu trúc chương trình. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải thay đổi về suy nghĩ về phương pháp truyền đạt cho hiệu quả cao nhất trong từng tiết học.
Với phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm nhỏ được đan xen với các phương pháp truyền thống, tôi cảm thấy trong giờ học hết sức thoải mái, tiết học không nặng nề. Và học sinh được thật sự làm việc, tìm tòi kiến thức và đào sâu kiến thức. Cụ thể bài kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm của hai lớp đạt:
Lớp 7A: 60,6%
Lớp 7B: 62,5%
Đến nay bài khảo sát chất lượng giữa học kỳI đã thự sự được nâng lên rõ rệt. Cụ thể chất lượng hai lớp đạt như sau:
Lớp 7A: 85%
Lớp 7B: 82%
Bài học rút ra.
1. Nhận thức chỉ có được thông qua hoạt động thực tiễn, do đó trong công tác giảng dạy phải tổ chức cho học sinh được làm việc nhiều, làm việc một cách tự giác dưới sự định hướng của giáo viên. từ đó hình thành cho học sinh tính tích cực, năng động, sáng tạo,nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trên cơ sở kiến thức toán học được tích luỹ có hệ thống. Muốn vậy phải chuẩn bị chu đáo bài dạy.
2. Tính tích cực cho học sinh rèn kỹ năng diễn đạt và trình bày các khái niệm, định nghĩa, định lý. Từ ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ toán học và ngược lại thông qua đó rèn kỹ năng phân tích và tổng hợp cho học sinh.
3. Đa dạng hoá các hình thức kiểm tra đặc biệt sử dụng phương pháp trắc nghiệm.
4. Chuẩn bị tốt các tình huống sư phạm có thể xảy ra để đáp ứng và xử lý kịp thời tạo niềm tin cho học sinh. Thầy giáo phải chuẩn mực về tác phong, ngôn ngữ góp phần tạo ra một tiết học hay sôi nổi và hiệu quả.
5. Trên đây là một kinh nghiệm rất nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy toán. có thể khi trình bày tôi có những thiếu xót mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để tôi giảng dạy được tốt hơn. cuối cùng tôi xin chân thành cám ơn!
 Vinh Quang , ngày 25 tháng 12 năm 2008.
 Người viết
 Nguyễn Hồng Chiên
................................................................................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN Phoi hop nhom trong day hoc Toandoc.doc