Văn học là một môn không thể thiếu trong chương trình giáo dục ở nhà trường phổ thông. Điều đó không ai có thể phủ nhận bởi lẽ văn học không chỉ cung cấp tri thức mà còn giáo dục về đạo đức và hình thành sự phát triển về nhân cách của con người.
Với đặc trưng là bộ môn nghệ thuật xây dựng bằng ngôn từ mỗi tác phẩm văn học đều có sự kết tinh văn hóa tinh thần của mỗi đất nước. Vì vậy ngôn ngữ văn học chính là sự phô bày vẻ đẹp cuả một thứ tiếng, thể hiện tài hoa của một dân tộc. Mỗi tác phẩm thiên tài không những là niềm đam mê, tự hào của dân tộc đó mà nó còn là chiếc cầu nối đem lại tình yêu, sự mến mộ và kính trọng của dân tộc khác.
Chương trình ngữ văn THCS đã đưa vào dạy – học rất nhiều tác phẩm văn học hay, có giá trị phản ánh một cách chân thực, sống động về đời sống xã hội, con người ở mỗi chặng đường phát triển lịch sử đất nước. Đồng thời cũng là sự ghi nhận những đóng góp đáng kể của các nhà văn, nhà thơ đối với sự phát triển của nền văn học nước nhà. Trong số các tác phẩm được đưa vào dạy – học có những tác phẩm không chỉ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc Việt Nam mà còn để lại sự mến mộ, cảm phục của rất nhiều bạn đọc nước ngoài. Một trong số tác phẩm đó chính là kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du.
PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO HUYỆN ỨNG HÒA Trêng THCS ®ång tiÕn ------**&**------ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: Để dạy tốt đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” Trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (Ngữ Văn 9_ tập I) Người viết : Phạm Hồng Vân Chức vụ : Giáo viên Đơn vị công tác : Trường THCS Đồng Tiến Ứng Hòa – Hà Nội Năm học: 2010 – 2011 CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ------***------ SƠ YẾU LÝ LỊCH Họ và tên: Phạm Hồng Vân Sinh ngày: 12/12/1977 Trình độ chuyên môn: Đại học Ngôn Ngữ học Ngày vào ngành: 01/09/2002 Chức vụ: Giáo viên Nhiệm vụ được giao: - Dạy môn Ngữ Văn lớp 8B, 8C Tự chọn 8C Chủ nhiệm 8C Đơn vị công tác: Trường THCS Đồng tiến Tên đề tài: Để dạy tốt đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” Trích “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du ( Ngữ Văn 9, tập I) PHẦN I: MỞ ĐẦU I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Văn học là một môn không thể thiếu trong chương trình giáo dục ở nhà trường phổ thông. Điều đó không ai có thể phủ nhận bởi lẽ văn học không chỉ cung cấp tri thức mà còn giáo dục về đạo đức và hình thành sự phát triển về nhân cách của con người. Với đặc trưng là bộ môn nghệ thuật xây dựng bằng ngôn từ mỗi tác phẩm văn học đều có sự kết tinh văn hóa tinh thần của mỗi đất nước. Vì vậy ngôn ngữ văn học chính là sự phô bày vẻ đẹp cuả một thứ tiếng, thể hiện tài hoa của một dân tộc. Mỗi tác phẩm thiên tài không những là niềm đam mê, tự hào của dân tộc đó mà nó còn là chiếc cầu nối đem lại tình yêu, sự mến mộ và kính trọng của dân tộc khác. Chương trình ngữ văn THCS đã đưa vào dạy – học rất nhiều tác phẩm văn học hay, có giá trị phản ánh một cách chân thực, sống động về đời sống xã hội, con người ở mỗi chặng đường phát triển lịch sử đất nước. Đồng thời cũng là sự ghi nhận những đóng góp đáng kể của các nhà văn, nhà thơ đối với sự phát triển của nền văn học nước nhà. Trong số các tác phẩm được đưa vào dạy – học có những tác phẩm không chỉ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc Việt Nam mà còn để lại sự mến mộ, cảm phục của rất nhiều bạn đọc nước ngoài. Một trong số tác phẩm đó chính là kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. Có thể nói chúng ta thật may mắn vì đã có được “Truyện Kiều” bởi chính “Truyện Kiều” đã góp phần làm cho văn hóa Việt Nam thêm rạng rỡ, vẻ đẹp của Tiếng việt được tôn xưng, tài năng của người Việt được khẳng định. Đúng như lời nhận xét của giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Sửu: “Giá trị của Truyện Kiều là giá trị sáng tạo văn hóa, văn chương tuyệt đỉnh.” Nói đến giá trị của “Truyện Kiều” trong văn học Việt Nam lại gợi cho ta nhớ đến một lời nhận định của nhà phê bình văn học Nga Bielinxkin khi ông nói tới vai trò của Puskin trong văn học Nga: “ Trước Puskin thơ chỉ là sự trình bày đẹp các tình cảm và ý tưởng cao cả những thứ không làm nên tâm hồn của thơ ca, nhưng thơ ca lại phụ thuộc vào như một phương tiện cho mục đích hướng thiện giống như phấn và son dùng để trang điểm cho một khuôn mặt nhợt nhạt của bà già chân lí. Các khái niệm chết cứng đó về sự ích dụng của hình thức thơ đã nảy sinh ra cái gọi là thi ca giáo huấn. Cho nên trước Puskin ta chỉ có nhà thơ mà chưa có nhà nghệ sĩ.” Đóng góp của Nguyễn Du trong nền văn học Việt Nam cũng vậy.Vị trí của Truyện Kiều trong văn học là ở chỗ nó đã đánh dấu sự xuất hiện của thi ca nghệ sĩ, sự thăng hoa của thiên tài lên chủ nghĩa giáo huấn, biến văn học Trung đại trở thành văn học nghệ thuật, biến Tiếng Việt thành Tiếng Việt văn học đích thực , biến truyện Nôm của Nguyễn Du trở thành một thể loại nghệ sĩ. Đó cũng chính là lí do tại sao ngay từ khi mới ra đời đến nay “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của đời sống tâm hồn dân tộc Việt Nam nói chung và đời sống văn hóa nói riêng. Việc các nhà biên soạn đưa một số đoạn trích trong tác phẩm “Truyện Kiều” vào chương trình giáo dục trong nhà trường phổ thông là rất cần thiết. Tuy nhiên điều người viết muốn nói ở đây là: đối với một kiệt tác văn học có giá trị to lớn như vậy làm thế nào giúp các em học sinh cảm nhận được hết cái hay cái đẹp về giá trị nội dung, tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của nó thì quả là một vấn đề không hề đơn giản đối với công việc giảng dạy của các giáo viên dạy bộ môn Ngư Văn. Bởi cái hay của Truyện Kiều không chỉ dừng lại ở nội dung cốt truyện mà nó còn được thể hiện ở nhiều khía cạnh góc nhìn nghệ thuật như tiết tấu, nhịp điệu, ngôn từ với các biện pháp tu từ được vận dụng khéo léo, tài tình cùng các thành ngữ, định ngữ, các điển tích, điển cố văn học Trung Quốc... để làm toát lên giá trị và ý nghĩa đích thực của một thiên truyện. Với phạm vi là một sáng kiến kinh nghiệm, ở đây người viết không có tham vọng đi vào khai thác toàn bộ giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm “Truyện Kiều” mà chỉ xin được phép giới hạn ở đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” trích “Truyện Kiều ” của Nguyễn Du (Ngữ văn 9 tập I) để đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp ý kiến. II/MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Một trong những đặc trưng của bộ môn Ngữ văn là phải giúp học sinh khai thác đúng nội dung tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm. Chính vì vậy vai trò của người giáo viên ở đây là rất quan trọng. Giáo viên không chỉ dẫn dắt học sinh trong việc tìm hiểu, khai thác nội dung kiến thức cho các em mà thông qua mỗi tác phẩm để thổi vào hồn các em những tư tưởng đạo đức tốt đẹpmà mỗi tác giả đều muốn gửi gắm vào đó. Để làm được điều này trong mỗi tiết dạy người giáo viên phải biết cách tạo hứng thú học tập cho học sinh trong tiết học của mình, làm cho tiết học trở nên sinh động. Giáo viên có thể vận dụng nhiều hình thức trên cơ sở áp dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy để các em dễ tiếp thu bài đồng thời tạo một sân chơi cho các em tránh cảm giác căng thẳng, mệt mỏi, nhàm chán, tiếp thu bài một cách thụ động mà không đem lại hiệu quả III/PHẠM VI NGHIÊN CỨU – ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI - Phạm vi: Lớp 9 - Áp dụng: Trường THCS Đồng Tiến - Nội dung nghiên cứu: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu và khai thác nội dung, tư tưởng, nghệ thuật của đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (Ngữ văn 9 – tập I) IV/ PHƯƠNG PHÁP Phương pháp đàm thoại – gợi mở, nêu vấn đề, bình giảng, trình chiếu, so sánh, thảo luận, kiểm tra đánh giá PHẦN II: NỘI DUNG I/ KHẢO SÁT TÌNH HÌNH THỰC TẾ 1.Thuận lợi Như đã nói ở trên , ngay từ khi ra đời “Truyện Kiều” đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của đời sống tâm hồn người Việt Nam. Nói như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đang khẳng định tính phổ biến của Truyện Kiều đối với mọi tầng lớp người dân Việt Nam.”Truyện Kiều” đã thực sự trở thành món ăn tinh thần của đông đảo bạn đọc, lại được sáng tác bằng chữ Nôm – thứ chữ do người Việt tự tạo ra và sáng tác theo thể thơ lục bát cho nên “Truyện Kiều” có ưu thế dễ đọc, dễ nhớ. Đã là người Việt Nam thì ít nhất ai cũng thuộc vài ba câu Kiều. Là một cốt truyện nhưng Truyện Kiều lại được viết theo thể trữ tình (hàm xúc, cô đọng) cho nên đối với học sinh khi tiếp cận với “Truyện Kiều” dù chỉ là trích đoạn nhỏ nhưng các em vẫn có thể hiểu nội dung bởi “Truyện Kiều” có thể tách ra thành từng đoạn, mỗi đoạn lại mang một nội dung phản ánh một vấn đề nhất định. 2.Khó khăn Nếu chỉ dừng lại ở việc đọc - hiểu nội dung “Truyện Kiều” một cách đơn thuần thì đó chưa phải là giá trị đích thực của một “kiệt tác”. Điều cần nói ở đây là trong mỗi trích đoạn của “Truyện Kiều” cụ thể là trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” người giáo viên phải làm thế nào để định hướng cho học sinh của mình khai thác đúng nội dung trọng tâm để các em nắm bắt nội dung bài học một cách hiệu quả thì đó là điều không mấy dễ dàng đối với công việc trên lớp của người giáo viên Theo khảo sát thực tế thì hầu hết các đối tượng học sinh ở trường THCS Đồng Tiến đều xuất thân từ nông thôn cho nên điều kiện kinh tế, đời sống còn nghèo, hầu hết gia đình các em chưa mấy quan tâm đến việc học tập của con cái, việc đầu tư cho học tập của các em về thời gian học ở nhà cũng như sách vở, tư liệu tham khảo, hỗ trợ cho các em trong học tập còn nhiều thiếu thốn. Ngoài vở ghi và sách giáo khoa ra hầu hết các em không có thêm các tài liệu tham khảo nào khác. Về phía nhà trường cơ sở hạ tầng còn hạn chế, các phòng học chức năng chưa dầy đủ. Đặc biệt là thư viện – Phòng đọc sách còn chưa đáp ứng được nhu cầu cho nên thói quen dọc sách của các em trong nhà trường là chưa có. Đó chính là khó khăn đáng kể cho người giáo viên trong khi dạy bộ môn Ngữ văn và nhất là khi dậy những tác phẩm có giá trị lớn như “Truyện Kiều” đòi hỏi người học phải có những hiểu biết nhất định về tác phẩm trước khi tiến hành tìm hiểu về một số đoạn trích trong tác phẩm. II/ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 1.Chuẩn bị Trước khi tiến hành một tiết dạy- học thì khâu chuẩn bị là rất cần thiết đối với cả người dạy và người học. Để có một tâm thế tốt cho tiết học đòi hỏi cả thầy và trò không chỉ chuẩn bị tốt về nội dung kiến thức mà còn phải chuẩn bị đầy đủ những đồ dùng, trang thiết bị phụ trợ cho bài học a. Đối với giáo viên - Trước hết giáo viên cần trang bị cho mình một kiến thức tốt đó là việc đầu tư cho giáo án. Giáo án có được chuẩn bị kĩ càng, tươm tất, chính xác, khoa học thì việc truyền đạt nội dung kiến thức mới đảm bảo. Để chuẩn bị tốt cho giáo án ngoài vốn hiểu biết về nội dung kiến thức bài học, tham khảo những tài liệu chuẩn kiến thức như : Sách giáo viên, Thiết kế bài giảng, Hệ thống câu hỏi... giáo viên cần tham khảo thêm các tài liệu có liên quan. - Giáo viên cần thiết lập một hệ thống câu hỏi đảm bảo tính khoa học, logic vừa có tính phát hiện đồng thời mang tính tư duy gợi suy nghĩ, sáng tạo cho học sinh trong khi tìm hiểu, khai thác nội dung bài học. - Ngoài những kiến thức liên quan đến nội dung bài dạy giáo viên cần chuẩn bị những đồ dùng, trang thiết bị dạy học. Ngoài đồ dùng thông thường: Phấn, bảng, thước, bút... giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng trực quan: tranh, ảnh minh họa, bảng phụ hoặc các thiết bị công nghệ như máy chiếu để làm cho tiết học trở nên sinh động tạo hứng thú học tập cho học sinh. Đồng thời tạo cho học sinh thói quen trong vấn đề tiếp cận với lĩnh vực công nghệ thông tin. Đồ dùng dạy học là yếu tố phụ trợ cho một tiết học nhưng nó cũng góp phần không nhỏ đến sự thành công của tiết dạy: + Đồ dùng trực quan được đưa vào tiết dạy sẽ giúp các em có sự nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện. Đối tượng trong tác phẩm được phản ánh một cách trực tiếp vào thị giác sẽ có tác dụng giúp học sinh lưu giữ và khắc sâu trong trí nhớ. Khi sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên nên đặt một số câu hỏi giúp học sinh có thể dựa vào đó để khai thác được phần nào nội dung văn bản. Tuy nhiên việc sử dụng đồ dùng trực quan phải đảm bảo được tính thiết thực và chuẩn mục, không nên sử dụng một cách tùy tiện nếu không sẽ phản tác dụng. + Dùng bảng phụ, phiếu học tập để ghi lại các dạng bài tập kiểm tra kiến thức, hiểu biết của học sinh, ghi khái quát nội dung bài học, liên hệ mở rộng vấn đề. Việc sử dụng ... giá trị văn bản. Khi khai thác về bức chân dung chị em Thúy Kiều – Thúy Vân trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” giáo viên có thể xây dựng hệ thống câu hỏi như sau: Giáo viên Học sinh (?) Trong bốn câu thơ giới thiêu chân dung chị em Thúy Kiều ở đầu văn bản, em thấy câu thơ nào mới lạ đối với em? Vì sao em thấy như vậy? *Giáo viên cần gợi mở về việc trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du thường sử dụng một số từ có tính điển tích, điển cố. (?) Để hiểu được câu thơ đó phải dựa vào đâu? (?) Từ đó em hiểu được ý nghĩa gì ở câu thơ trên? *Giáo viên cần phân tích và giảng giải cho học sinh thấy được đây là bức chân dung về hai thiếu nữ trẻ đẹp có cốt cách thanh cao, duyên dáng và tâm hồn trong trắng, tinh khiết. (?) Ngoài việc sử dụng các tính từ có tính điển tích, Nguyễn du còn vận dụng hình thức nghệ thuật nào để khắc họa vẻ đẹp ấy? (?) Tác dụng của hình thức nghệ thuật đó? *Giáo viên cần gợi mở thêm về việc đưa thành ngữ Tiếng Việt nhằm dụng ý nghệ thuật của tác giả. Cách giới thiệu ngắn gọn nhưng làm nổi bật đặc điểm của hai chị em Thúy Kiều. (?) Nếu chuyển đoạn thơ này thành văn xuôi thì đoạn văn của em sẽ được viết như thế nào? *Giáo viên đưa ví dụ về đoạn văn chuyển từ thơ sang văn xuôi lên máy chiếu (hoặc bảng phụ) cho học sinh tham khảo (?) Từ đây em có nhận xét gì về ưu thế của thơ so với văn xuôi? (?) em nhận thấy phương thức nào xuất hiện trong đoạn thơ này? (?) Kết hợp nhiều phương thức trên đem lại hiệu quả phản ánh của đoạn thơ này như thế nào? *Giáo viên có thể giải thích thêm và khái quát nội dung -Câu thơ thứ ba: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. -Vì cấu tạo không bình thường của lời thơ và khó hiểu -Tìm hiểu các điển tích, điển cố, xem phần chú thích -Giới thiệu vẻ đẹp về hình dáng và tâm hồn của chị em Thúy Kiều -Vận dụng các thành ngữ Tiếng Việt và nghệ thuật tiểu đối -Vừa nhấn mạnh nét đẹp riêng đồng thời khẳng định cả hai đều có nhan sắc tuyệt vời, hoàn hảo -(Nêu cách viết của mình sang văn xuôi) -Thơ ngắn gọn, có sức gợi hơn, khó hiểu hơn văn xuôi nhưng nếu hiểu được thì cảm thấy hay hơn -Phương thức tự sự, miêu tả và biểu cảm -Vừa kể việc, vừa khắc họa nhân vật, vừa bộc lộ thái độ của tác giả b.Phương pháp trình chiếu Đây là một phương pháp nhằm bổ trợ, tạo hứng thú cho học sinh trong tiết học, làm thay đổi không khí, tạo sự hấp dẫn thông qua các kênh hình ảnh, video clip cụ thể, rõ ràng, sinh động, dễ hình dung, giúp các em thư thái đầu óc và cảm thấy hứng thú hơn trong việc tiếp thu nội dung bài học. c. Phương pháp nêu vấn đề Vấn đề đặt ra trong văn bản là điểm cần định hướng cho việc khai thác và chiếm lĩnh văn bản. Vì vậy khi dậy giáo viên có thể đặt ra các câu hỏi tình huống để học sinh suy nghĩ, khám phá. Khi dạy đoạn trích “chị em Thúy Kiều” giáo viên có thể đặt ra một số câu hỏi tình huống để học sinh suy nghĩ, khám phá: (?) Trong thơ cổ điển thường có những ví von, so sánh theo cách lấy vẻ đẹp của thiên nhiên đối chiếu với vẻ đẹp của con người. Em giải thích như thế nào về vẻ đẹp của Thúy Vân qua cách so sánh “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”? Hay: (?) Vẻ đẹp của đôi mắt và ánh mắt không chỉ là nét đẹp hình thể mà còn phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của con người. Từ đôi mắt của Thúy Kiều em liên tưởng tới vẻ đẹp nào của nàng? Với những câu hỏi như vậy học sinh sẽ suy nghĩ trả lời đồng thời giúp các em nắm bắt được vấn đề bằng chính cảm nhận của mình. d. Phương pháp bình giảng Đây là phương pháp chiếm vị trí quan trọng trong tiết giảng văn. Nhất là đối với các tác phẩm được coi là kiệt tác như “Truyện Kiều” thì việc bình giảng là rất cần thiết để giúp học sinh hiểu rõ, hiểu sâu về tác phẩm. Văn bản nào cũng có điểm nhấn của nó. Vì vậy phải chọn điểm để bình. Nếu chọn đúng điểm nhấn đó sẽ làm tăng hiệu quả. Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. Khi tả về vẻ đẹp của Thúy Kiều, điều mà Nguyễn Du muốn nhấn mạnh ở đây chính là việc ông miêu tả đôi mắt của Kiều. Tại sao tác giả không chọn các đặc điểm khác mà lại chọn “đôi mắt” và chỉ với việc tả “đôi mắt” Nguyễn Du đã sử dụng tới ba câu thơ. Điều đó cho thấy việc tả đôi mắt này mang một dụng ý sâu sắc. Người ta vẫn thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Đúng vậy, khi miêu tả đôi mắt của Kiều tác giả không chỉ tả cái “sắc” mà còn thông qua đó để tả cái “tình” của Kiều. Bởi vẻ đẹp đôi mắt Kiều đã phản ánh tâm hồn nàng và như thế tâm hồn Kiều chỉ có thể bộc lộ qua đôi mắt. e. Phương pháp so sánh So sánh là phương pháp không thể thiếu khi dạy các đoạn trích “Truyện Kiều”. Sử dụng phương pháp so sánh sẽ làm nổi bật được nét tài tình trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Nguyễn Du. Ở đây phương pháp so sánh có thể thực hiện bằng cách đối chiếu giữa đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du với đoạn trích tương ứng trong tác phẩm “Kim Vân Kiều” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Ta thấy chân dung Thúy Kiều, Thúy Vân của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là chân dung người đẹp đơn thuần dưới mắt người tình Kim Trọng. Còn chân dung Thúy Kiều, Thúy Vân của Nguyễn Du được đưa lên dưới con mắt nhìn nghệ thuật của tác giả. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên của vũ trụ có tính vĩnh hằng. g.Phương pháp thảo luận nhóm Phương pháp thảo luận nhóm sẽ rèn cho học sinh tinh thần làm việc tập thể. Các em có thể tự do đưa ra những ý kiến của mình trước bạn bè, tán thành hoặc bác bỏ ý kiến khác để đi đến một quan điểm thống nhất mang tính tập thể. Để việc hoạt động nhóm của học sinh có hiệu quả giáo viên cần đặt những câu hỏi mang tính tư duy, gợi sự liên tưởng, liên hệ cho các em đến các vấn đề khác h. Phương pháp kiểm tra đánh giá Bên cạnh việc vận dụng các phương pháp giảng dạy. Để kiểm tra sự tiếp thu kiến thức sau bài học của học sinh, giáo viên cần tổ chức hoạt động kiểm tra, đánh giá cho học sinh bằng cách đưa ra các bài tập bao gồm bài tập xác định và bài tập tư duy, thảo luận nhóm. Sau khi học xong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, giáo viên có thể dùng một số dạng bài tập sau để kiểm tra quá trình tiếp thu bài của học sinh: *Bài tập 1 (trắc nghiệm) Hãy khoanh tròn chữ cái a, b, c,... đứng trước câu trả lời đúng. Câu 1: Nguyễn Du đã dùng bút pháp nghệ thuật gì để tả chị em Thúy Kiều: Bút pháp tả thực c. Bút pháp ước lệ Bút pháp tự sự d. Bút pháp lãng mạn Câu 2: Nguyễn du giới thiệu: “Thúy Kiều là chị, em là thúy vân”. Nhưng trong đoạn trích thơ lại tả Thúy Vân trước, Thúy Kiếu sau. Điều đó có nghĩa như thế nào? Vì Thúy Vân không phải là nhân vật chính Vì tả Thúy Vân ít hơn là Thúy Kiều Vì Nguyễn Du muốn so sánh Thúy Vân với Thúy Kiều Vì tả Thúy Vân trước để so sánh làm nổi bật Thúy Kiều Câu 3: Điểm chung trong cách tả nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân là gì? Dùng thủ pháp ước lệ Lấy vẻ đẹp thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con người Tả hình dáng để thể hiện ticnhs cách, dự báo số phận Bao gồm cả ba ý trên *Bài tập 2 (thảo luận hoặc thể hiện ý kiến cá nhân) Câu 1: Em đọc được những vẻ đẹp nào của con người sau khi học xong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”? Những vẻ đẹp đó gợi cho em cảm nghĩ gì về con người? Câu 2: Nguyễn Du nổi tiếng là nhà văn nhân đạo. Nội dung nhân đạo trong “Truyện Kiều ” của Nguyễn Du có thể là: -Tố cáo mãnh liệt những thế lực thù địch với tình yêu và hạnh phúc con người -Yêu thương vô hạn những người tài hoa bạc mệnh -Lên tiếng bênh vực quyền sống của con người -Trân trọng tình yêu và giá trị cao đẹp của con người Em đọc được nội dung nhân đạo nào trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”? III/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Sau khi áp dụng phương pháp dạy học như đã trình bày ở trên vào việc dạy một số đoạn trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, cụ thể là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” (Ngữ Văn 9 – tập I). Tôi nhận thấy học sinh có hứng thú hơn và kết quả học tập của các em cũng được nâng cao. Nhiều học sinh đã nắm được bài và xác định được hướng khai thác nội dung, tư tưởng cũng như nghệ thuật của đoạn trích. Với việc khảo sát chất lượng mức độ tiếp thu bài của học sinh qua các tiết học đã đạt được kết quả như sau: Bài Khảo sát Tổng số HS Tốt Khá TB Dưới TB Khảo sát lần 1 69 10.4% 26% 39% 24,6% Khảo sát lần 2 69 19,5% 32,5% 33,7% 14,3% Khảo sát lần 3 69 23% 38,9% 33,7% 6,4% IV/NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM Qua quá trình dạy học môn Ngữ văn và nhất là sau khi dạy xong đoạn trích “chị em Thúy Kiều” trích “Truyện Kiều ” của Nguyễn Du tôi nhận thấy: Để có một tiết học đem lại hiệu quả thực sự thì cần phải lưu ý các yếu tố sau: Giáo viên và học sinh cần có sự chuẩn bị tốt trước khi lên lớp. Xác định nội dung kiến thức trọng tâm của bài Sử dụng đồ dùng, thiết bị phù hợp với tiết học Áp dụng linh hoạt các phương pháp trong khi dạy – học Kiểm tra, đánh giá lại việc day và học ở nhiều hình thức PHẦN III: KẾT LUẬN Hiện nay, vấn đề giao lưu quốc tế đang ngày một phát triển, mở rộng trên nhiều mặt. Trong đó xu thế giao lưu hội nhập văn hóa ngày càng phát triển thì việc nhận diện bản sắc văn hóa và tính sáng tạo của các sáng tác văn học dân tộc là rất cần thiết. Chính vì vậy đối với một tác phẩm có giá trị như “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục nhà trường là rất hợp lí. “Truyện Kiều” là một tác phẩm có tính sáng tạo toàn ven. Điều đó được bắt đầu từ ý đồ, quan niệm đến hình dung toàn bộ thế giới con người, ... Tất cả tạo thành một chỉnh thể độc đáo không lặp lại của văn học dân tộc, văn học thế giới. Để giúp học sinh khai thác vấn đề đó phải kể đến vai trò của người giáo viên trong công tác giảng dạy. Người giáo viên là người truyền đạt kiến thức, dẫn dắt học sinh từng bước tìm hiểu, khai thác giá trị nội dung, tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm thông qua các hoạt động dạy – học trên lớp giúp các em có sự tiếp cận và hiểu biết sâu hơn về tác phẩm. Đồng thời thông qua đó giúp các em có được sự nhìn nhận, hiểu biết hơn về nền văn hóa nước nhà. Vì thế vai trò của người giáo viên đối với sự nghiệp giáo dục là rất quan trọng. Chúng ta không chỉ làm nhiệm vụ là truyền đạt, cung cấp tri thức cho học sinh mà còn giáo dục các em về ý thức đạo đức. Người giáo viên chính là người thổi vào tâm hồn các em những tư tưởng và ý thức cao đẹp của cuộc sống. Chính vì vậy bản thân người giáo viên cũng phải không ngừng học tập để trau dồi kiến thức, nâng cao kĩ năng nghiệp vụ, lối sống trong sáng, lành mạnh để làm tấm gương sáng cho học sinh học tập và noi theo. Trên đây là một vài suy nghĩ của tôi qua việc giảng dạy môn Ngữ Văn ở nhà trương THCS và một số kinh nghiệm được rút ra qua tiết dạy về đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (Ngữ văn 9 – tập I). Với phạm vi là một đề tài kinh nghiệm nên cũng không tránh khỏi cái nhìn mang tính chủ quan, cá nhân và những thiếu sót.Rất mong đồng nghiệp đọc và góp ý để tôi có thể thực hiện tốt hơn cho các tiết dạy của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn! Đồng Tiến, ngày 28 tháng 04 năm 2011 NGƯỜI VIẾT Phạm Hồng Vân NhËn xÐt ®¸nh gi¸ cña ®¬n vÞ c¬ së
Tài liệu đính kèm: