Sáng kiến kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp dạy - Học tác phẩm trữ tình ở trường THCS

Sáng kiến kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp dạy - Học tác phẩm trữ tình ở trường THCS

ĐẶT VẤN ĐỀ

 Quá trình Dạy – Học văn là quá trình có chương trình, kế hoạch hướng vào những mục tiêu, yêu cầu thống nhất, một quá trình gắn liền với hoạt động trí tuệ và cảm xúc của giáo viên và học sinh. Quá trình đó còn có quan hệ chặt chẽ với những quan điểm về chính trị và triết học, về đạo đức và thẩm mỹ về khoa học, kĩ thuật; về lịch sử xã hội, văn hoá ở từng giai đoạn, từng thời kì của đất nước, thậm chí của từng khu vực, từng địa bàn nhất định. Đó còn là một quá trình lao động sáng tạo nặng nhọc, mang tính đặc thù của người giáo viên. Người giáo viên phải nghiên cứu, tính toán, nghiền ngẫm một cách công phu qua từng công đoạn, trong mỗi khâu, mỗi biện pháp, cách thức thủ thuật để tổ chức học sinh, khơi dậy niềm say mê trí tuệ, tâm hồn, dẫn dắt tư duy học sinh giúp các em chủ động, đối diện trực tiếp với tác phẩm, tiếp xúc với tác giả qua tác phẩm; thưởng thức và khám phá cái hay, cái đẹp, những giá trị về nhiều mặt của tác phẩm văn chương. Đó là một quá trình hoạt động hết sức phức tạp và đa dạng, mang tính khoa học và nghệ thuật sâu sắc.

 

doc 10 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 991Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp dạy - Học tác phẩm trữ tình ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Phần I. Đặt vấn đề:. Trang: 2 - 3
Phần II. Nội dung: ...Trang: 3 – 10
 II.1. Cơ sở lý luận:Trang: 3 - 4
 II.2. Nội dung:......Trang: 4 - 10
 II.2.1. Đọc thơ trữ tình:.Trang: 4 - 5
 II.2.2. Giảng bình:.Trang: 5 - 7
 II.2.3. Tìm hiểu tâm trạng trong thơ trữ tình:Trang: 7 - 8
 II.2.4. Tìm hiểu yếu tố thi pháp trong thơ trữ tình:Trang: 8 - 10
 II.2.4.1. Chất thơ, lời thơ:..Trang: 8 - 9
 II.2.4.2. Hình ảnh thơ:Trang: 9
 II.2.4.3. Ngôn ngữ thơ:..Trang: 9 - 10
Phần III. Kết luận:Trang: 10
 Phần I
Đặt vấn đề
 Quá trình Dạy – Học văn là quá trình có chương trình, kế hoạch hướng vào những mục tiêu, yêu cầu thống nhất, một quá trình gắn liền với hoạt động trí tuệ và cảm xúc của giáo viên và học sinh. Quá trình đó còn có quan hệ chặt chẽ với những quan điểm về chính trị và triết học, về đạo đức và thẩm mỹ về khoa học, kĩ thuật; về lịch sử xã hội, văn hoá ở từng giai đoạn, từng thời kì của đất nước, thậm chí của từng khu vực, từng địa bàn nhất định. Đó còn là một quá trình lao động sáng tạo nặng nhọc, mang tính đặc thù của người giáo viên. Người giáo viên phải nghiên cứu, tính toán, nghiền ngẫm một cách công phu qua từng công đoạn, trong mỗi khâu, mỗi biện pháp, cách thức thủ thuậtđể tổ chức học sinh, khơi dậy niềm say mê trí tuệ, tâm hồn, dẫn dắt tư duy học sinhgiúp các em chủ động, đối diện trực tiếp với tác phẩm, tiếp xúc với tác giả qua tác phẩm; thưởng thức và khám phá cái hay, cái đẹp, những giá trị về nhiều mặt của tác phẩm văn chương. Đó là một quá trình hoạt động hết sức phức tạp và đa dạng, mang tính khoa học và nghệ thuật sâu sắc. 
 Song để có được một tiết dạy - học tác phẩm văn chương đích thực, đúng bản chất, đúng nghĩa của nó trong giai đoạn hiện nay là rất khó. Bởi lẽ vì nhu cầu và khả năng tiếp cận văn học của học sinh có nhiều hạn chế, do điều kiện và môi trường sống đã làm thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá, cũng như thị hiếu văn học của các em. Trong đó các chương trình truyền hình, các thông tin trên mạng và các trò chơi điện tử như đã cuốn hút, chiếm hết thời gian và làm cho các em trở nên lười nhác với việc đọc sách, đọc truyện hay đọc thơ. Mặc dù Văn học luôn có một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của các em nói riêng và của tất cả mọi người nói chung.Từ thực tế đó dẫn đến tình trạng trong quá trình học văn, học sinh thường có thái độ thờ ơ, chán nản, không hứng thú, đồng thời kéo theo là sự tiếp thu, cảm nhận một tác phẩm văn học cũng khó khăn, khô khan và thiếu chất văn, đặc biệt là các tác phẩm trữ tình. Việc đọc tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm trữ tình thiếu trôi chảy, còn lúng túng, chưa đúng ngữ điệu, giọng điệu, nhịp điệu của một bài thơ. Thậm chí còn sai từ, sai ngữ. Quá trình vận dụng kiến thức văn học vào việc nói và viết thì quá vụng về, lời văn khô khan, cộc cằn. Chưa diễn đạt được một ý trọn vẹn, khả năng dùng từ đặt câu còn sai. 
 Bên cạnh đối tượng học sinh chưa thật sự tích cực với việc học văn thì còn một bộ phận giáo viên chưa nhận thức đúng mức vai trò và chức năng của văn học cũng như đặc trưng của văn học. Việc giảng dạy tác phẩm văn học của một số giáo viên còn mang tính chiếu lệ, đối phó. Chưa quan tâm đến việc học sinh có cảm thụ được hay không, hoặc trong quá trình chuẩn bị cho tiết dạy thiếu chu đáo, không nghiên cứu kĩ dẫn đến truyền thụ sai kiến thức cơ bản, chứ chưa nói đến việc sử dụng phương pháp dạy học không phù hợp. 
 Để có những tiết dạy – học văn sinh động giàu cảm xúc, gây được hứng thú học tập ở học sinh, đòi hỏi giáo viên văn cần có một tâm thế vững vàng về kiến thức, lẫn cảm xúc văn học mới khơi dậy được ở học sinh niềm say mê hứng thú học tập. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THCS tôi xin đóng góp tiếng nói kinh nghiệm của mình trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói chung và việc dạy - học tác phẩm trữ tình nói riêng đến với các giáo viên Ngữ văn trong nghành. Mong sao nhận được lòng đồng cảm chia sẽ của các đồng nghiệp. 
Phần II
Nội dung
1. Cơ sở lý luận:
 Trữ tình là loại hình chiếm vị trí khá quan trọng trong chương trình và SGK Ngữ văn THCS. Cũng như tác phẩm tự sự, các tác phẩm trữ tình chiếm đến gần một nữa khối lượng và thời gian trong chương trình SGK chưa kể những bài ký, nghị luận mà yếu tố trữ tình khá đậm. Đó là những bài thơ, bài ca dao trữ tình và trào phúng, những bài thơ Đường luật, những bài thơ lục bát, thơ năm chữ, những bài thơ tự dorất phù hợp với sự hiểu, cảm của học sinh. Đó là những sáng tác của những nhà thơ lớn của dân tộc từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến cho đến Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Chế Lan Viênlà tiếng nói cao đẹp về tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người, là tiếng đập khẻ khàng của con tim trước vẽ đẹp của thiên nhiên, của tình người mà bất kì học sinh nào đặt chân đến trường cũng cần học tập, bồi dưỡng để mở rộng tâm hồn, nâng cao mơ ước và bồi dưỡng tình cảm và mĩ cảm.
 Nếu tự sự là hoại hình tác phẩm dùng lời kể để tái hiện thực tại khách quan nhằm dựng lại một dòng đời qua những biến cố, những con người, qua đó thể hiện một cách hiểu, một thái độ nhất định thì trữ tình là loại tác phẩm được cấu trúc bởi một kiểu ngôn ngữ đặc biệt, khác hẳn ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ văn xuôi để bộc lộ ý thức, tình cảm con người một cách trực tiếp. Đặc điểm quan trọng của tác phẩm trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp ý thức của con người. Là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những rung động đột xuất, độc đáo. Trong tác phẩm trữ tình, con người trực tiếp bộc lộ ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình.
 Cái tôi trữ tình luôn cảm xúc thực sự, bộc lộ hẳn ra. Tiếng nói trữ tình trở thành tiếng lòng thầm kính của mọi người. Bảo rằng: Thơ là tiếng vọng của tâm hồn và nhà thơ là người tự trò chuyện với mình cho người khác biết, thì cũng là cách nói tới đặc trưng này của tác phẩm trữ tình. Đúng nó là lời gửi của người nghệ sỹ. 
 2. nội dung:
2.1. Đọc thơ trữ tình:
 Đọc diễn cảm là bước đầu tạo tiền đề cho hoạt động tái hiện và có khả năng thực hiện dễ dàng, đầy đủ hoạt động tái hiện. Với tác phẩm trữ tình, đọc vừa là đồng cảm, vừa là diễn cảm. Cũng nhờ đọc mà học sinh như vừa được chứng kiến vừa được thể nghiệm. Vì thế đọc tái hiện, tri giác hình tượng thơ là hoạt động không thể coi nhẹ trong quá trình dạy - học thơ trữ tình. Tái hiện hình tượng thơ không những là một thao tác tư duy để đi vào tác phẩm mà còn là một bí quyết truyền thụ nữa. Nhờ đọc và tái hiện hình tượng và cảm quan nghe, nhìn được khởi động theo âm vang của ngôn ngữ tác phẩm. Kết quả nhận thức bằng cảm giác, tri giác tạo điều kiện cho tưởng tượng của các em bay bổng và tái hiện được sáng rõ những hình ảnh do tác giả vẽ nên trong tác phẩm. Ngoài đọc diễn cảm, giáo viên cần mô tả, kích thích trí tưởng tượng ở học sinh. Hình ảnh càng sáng rõ, sức cảm thụ càng mạnh, sức đồng cảm càng cao, giáo viên và học sinh càng có điều kiện giao cảm với nhau và với tác giả.
 Để dạy tốt bài thơ trữ tình, giáo viên cần nghiên cứu kĩ, tìm ra giọng điệu và do đó tìm ra cách đọc, cách tái hiện hình tượng thích hợp để hướng dẫn học sinh đọc tốt; chổ nào cần nhấn mạnh, chổ nào cần đọc chậm, ngắt nghĩ như thế nào Đọc thơ là đọc theo nhịp, dựa vào dòng thơ nhưng không thể lệ thuộc vào dòng thơ. ý tưởng của nhà thơ không bị câu thơ câu thúc. Cho nên đọc thơ trữ tình phải làm sao thể hiện đúng tình cảm, ý nghĩ của bài thơ. Trong thực tế quá trình giảng dạy tác phẩm trữ tình nhiều giáo viên không mấy quan tâm đến vấn đề ngắt nhịp nên cứ để cho học sinh tự do đọc thơ theo cảm tính. Vì thế khi phân tích cả giáo viên và học sinh đã hiểu sai lệch về nội dung của câu thơ, chưa thấy được ý đồ nghệ thuật của tác giả. Thậm chí có những câu thơ khi đọc không đúng nhịp thì trở nên tối nghĩa mà giáo viên không nhận ra cứ thế giảng, cứ thế khai thác.
Ví dụ: Trong bài thơ “ Nhớ rừng” của Thế Lữ ( Ngữ văn 8 ) có giáo viên đọc mẫu và hướng dẫn học sinh đọc 2 câu: “ Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng” 
 “ Ta đợi chết mãnh mặt trời gay gắt ” 
Bằng nhịp thơ 3/5. Nếu đọc theo nhịp 3/5 câu thơ rất dễ đọc, theo vần điệu, nhưng sai nghĩa. Vì không thể chấp nhận ý thơ: “giấc ngủ tưng bừng” ( Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng ) và “ta đợi chết” ( Ta đợi chết mãnh mặt trời gay gắt ) 
Mà phải hiểu là: tiếng chim ca tưng bừng và chết mãnh mặt trời gay gắt. Vì vậy cần phải đọc 2 câu thơ đó theo nhịp 2 / 4 / 2: “Tiếng chim/ ca giấc ngủ ta/ tưng bừng” và “Ta đợi/ chết mãnh mặt trời/ gay gắt”.
 2. 2. Giảng bình thơ:
 Giảng bình là biện pháp có tính đặc thù của cảm thụ và truyền thụ văn học. Thông qua sự hiểu biết và rung cảm của giáo viên mà học sinh hiểu biết và rung cảm một cách đúng đắn. Giảng bình là biện pháp đắc lực trong dạy - học Ngữ văn ở THCS vừa có tác dụng trau dồi ngôn ngữ, vừa có tác dụng giáo dục văn học . Giảng bình giúp học sinh đi từ giai đoạn trực cảm sang giai đoạn cảm thụ có lí tính và cuối cùng là hoàn chỉnh quy luật tâm lý về cảm thụ văn học. Về mặt tư duy, đây là khâu học sinh được vận dụng phân tích - tổng hợp từ thấp đến cao để đạt được hiệu quả rèn luyện tư duy tốt nhất.
 ở THCS, nội dung giảng bình trong một bài văn là những sắc thái tu từ về ngữ âm, từ vựng, cú pháp mà chủ yếu là sắc thái tu từ từ vựng.
 Giảng là làm cho học sinh hiểu thuần tuý về mặt ngôn ngữ đối với chi tiết nghệ thuật được phân tích. Bình là làm cho học sinh hiểu sự biến đổi nghệ thuật của tác phẩm trong văn cảnh, chỉ ra giá trị nghệ thuật của từ ngữ, câu, đoạnchỉ ra sức thông báo nhiệm màu của chi tiết nghệ thuật đó.
 Biện pháp giảng bình ở THCS được xây dựng trên cơ sở đối lập sắc thái trung tính và sắc thái tu từ, nhằm làm cho học sinh vừa hiểu biết và cảm thụ ngôn ngữ , vừa cảm thụ văn học. Trên sơ đồ liên tưởng và ngữ đoạn, từ ngữ nghệ thuật luôn xuất hiện trong sự kết hợp đó.Tìm sự đối lập giữa sắc thái trung tính và sắc thái biểu cảm trên sơ đồ kết hợp giữa liên tưởng và ngữ đoạn là hình thức ta thường thấy ở nhiều giờ dạy học của những giáo viên có kinh nghiệm. Ví dụ: Dạy bài “Đêm nay Bác không ngủ” của nhà thơ Minh Huệ ở Ngữ văn lớp 6 có giáo viên đã giảng bình từ “dém” ( dém chăn, ém chăn, sữa chăn). Trong đó từ “dém” có sức biểu cảm cao hơn cả. Bao nhiêu yêu thương, chăm chút, bao nhiêu trìu mến, nâng niu, như dồn cả vào từ “dém”. Ta cảm thấy như có bóng dáng yêu thương của ông, bà, cha, mẹ ta đang chăm lo giấc ngủ của taTừ “dém” được đặt trong vị trí của câu thơ “Bác đi dém chăn từng người, từng người một” còn nói lên tình yêu thương của Bác Hồ rất cụ thể, không bỏ sót một ai. Làm cho người đọc càng trân trọng và tự hào hơn về Bác.
 Sự kết hợp giữa giảng và bình cũng rất linh hoạt; có khi giảng trước bình sau; có khi bình trước, giảng sau; có khi giảng kết hợp với bình. Giảng có thể có hoặc không, nhưng bình thì nhất thiết phải có, nhất thiết phải phân tích giá trị văn học của ngôn ngữ nghệ thuật. Người bình phải biết chọn chi tiết, hình ảnh, tứ thơ để bình, chọn lọc cách bình và tốt nhất là phải biết dừng lại đúng lúc, đúng chổ để cho học sinh tự suy nghĩ, liên tưởng mộng mơ. Có khi lời bình là một nghĩ suy. Khi bình một âm thanh trong bài: “Tiếng chổi tre” của Tố Hữu, giáo sư Lê Đình Kị đã phát biểu: “Trong âm thanh sắc ngọt của bài thơ vẫn có một nỗi gì xao xác: 
 Tiếng chổi tre
 Xao xác hàng me
 Tiếng chổi tre
 Đêm hè
 Quét rác
 Bài thơ nhờ thế mà thêm chút xao xuyến, thêm sức ám ảnh cho vấn đề đặt ra. Nó là vấn đề phức tạp, không thể nhầm lẫn một cách giản đơn, xuề xoà được”.
 Để giảng bình một cách có hiệu quả, giáo viên phải có sự hiểu biết nhiều, có tình cảm đẹp, có sự nhạy cảm thẩm mỹ và có năng lực diễn đạt. Đó là kết quả của một sự phấn đấu rèn luyện rất cao.
 2. 3. Tìm hiểu tâm trạng trong tác phẩm trữ tình:
 Nếu hình tượng trong tác phẩm tự sự là hình tượng tính cách thì hình tượng trong tác phẩm trữ tình là tiếng nói tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những tâm trạng. Thơ trữ tình chứa đầy tâm trạng nên việc tìm hiểu tâm trạng trong thơ trữ tình cần được chú ý và hướng dẫn học sinh tìm hiểu.
 Sự chọn lọc nghiên cứu những giá trị tinh thần theo quy luật của điển hình hoá nghệ thuật sẽ giữ lại trong tác phẩm trữ tình những cảm xúc và tâm trạng mang ý nghĩa điển hình. Tất nhiên cảm xúc và tâm trạng đó được gắn với sự rung động về vần điệu, hình tượng âm thanh một hứng thú sáng tạo: “Qua đèo Ngang” của bà huyện Thanh Quan là bài thơ chứa đầy tâm trạng. Mặc dù Hoành Sơn một dãi nghìn tầm, có núi non hiểm trở, có thành ấp, có dấu vết của chiến trận ngày xưa, có cái hùng vĩ của nó nhưng với một tâm trạng cô đơn buồn bã thì dưới con mắt của bà, đèo Ngang chỉ là một mãnh buồn; từ hình ảnh, âm thanh, màu sắcchỉ gợi ta nghĩ đến tâm trạng cô đơn buồn bã của nhà thơ.
 Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trong Ngữ văn lớp 9 chứa đầy tâm trạng. Kiều sống ở lầu Ngưng Bích lúc này chẳng khác gì một cô gái cấm cung. Từ trên lầu cao trông ra, nàng ngắm dãy núi xa, mãnh trăng gần như trong cùng một bức tranh đẹp:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
 Cảnh vật thiên nhiên thật là khoáng đạt và ngoạn mục song Kiều không thấy một sự hoà nhập nào với cảnh, chỉ thấy bẽ bàng, chua xót. Trong cảnh ấy, nàng chỉ thấy cồn lên một nỗi nhớ, nỗi chua xót, nỗi buồn lo mênh mông, sâu thẳm trước cơn tai biến dữ dội vừa ập lên cuộc đời nàng và chưa thôi thách thức đe doạ.
 Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu tâm trạng trong thơ trữ tình ta có thể dùng biện pháp gợi mở với một hệ thống câu hỏi. Bằng con đường đàm thoại, gợi mở, giáo viên sẽ tạo cho lớp học một không khí thoải mái để tìm sự đồng cảm với nhân vật trữ tình. 
 Tâm trạng cảm xúc trong thơ phải là những tâm trạng cảm xúc rất thật. Tâm trạng của Viễn Phương khi “ Viếng lăng Bác” là tâm trạng điển hình, cũng là tâm trạng chung của nhiều người, của chúng ta khi “Viếng lăng Bác”. Bởi thế tìm hiểu tâm trạng nhà thơ, giáo viên phải nắm được trạng thái cảm xúc của nhà thơ, phải có tâm trạng cảm xúc rất thật.
 Câu nói của nhà thơ Huy Cận giúp ta thấy rõ hơn công việc thụ hiểu tâm trạng trữ tình quan trọng đến mức nào: “ Bao trùm lên tất cả là một trạng thái tâm hồn, hơn thế nữa là một trạng thái tâm thần và cơ thể cởi mở, thư thái mà sôi nổi, hào hứng mà lắng trong, một trạng thái toàn diện trong đó ý và tình như đang sinh ra, đang nhú lên, tình đang đọng trong ý, ý còn mang tất cả rung động của tình, một trạng thái tinh khôi sáng tạo ”.
 2.4. Tìm hiểu các yếu tố thi pháp thơ trữ tình:
 2.4.1. Chất thơ, lời thơ: Nói đến thơ là nói đến chất thơ, lời thơ. Điều đáng chú ý từ dấu hiệu đầu tiên của hình thức thơ là nhịp thơ. Thơ là văn bản được tổ chức bằng nhịp điệu của ngôn từ. Nhịp điệu thơ được tổ chức đặc biệt để thể hiện nhịp điệu tâm hồn, nhịp điệu cảm nhận thế giới một cách thầm kín. Nhịp điệu được tạo ra bởi sự trùng điệp; trùng điệp của âm vần; trùng điệp ở nhịp, trùng điệp ở ý thơ, ở câu thơ hoặc bộ phận của câu thơ. Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ ” của Thanh Hải ( Ngữ văn lớp 9 ) thành công nổi bật là việc sử dụng nhịp điệu. Sự gợi cảm của bài thơ nhờ ở cách đặt câu ngắn gọn, trùng điệp ở câu thơ, ở bộ phận thơ, cách gieo vần cũng rất linh hoạt.
 Nhịp điệu trong thơ còn có sự cộng hưởng với nhịp điệu bên trong của tâm hồn: 
 “Tiếng hát trong như tiếng hát xa” ( Cảnh khuya – Hồ Chí Minh). Sự rung động của vần điệu nằm trong sức rung động mạnh mẽ của cảm hứng sáng tạo. Bài thơ “ Lượm ” của Tố Hữu là một biểu hiện thành công trong sử dụng nhịp điệu. Chính nhịp điệu góp phần dựng lại hình ảnh một cậu bé Lượm hồn nhiên, nhí nhảnh yêu đờiPhân tích bài Lượm phải chú ý đến việc phân tích nhịp điệu là vì thế.
 2.4.2. Hình ảnh thơ: hình ảnh trong thơ trực tiếp truyền đạt sự cảm nhận thế giới một cách chủ quan. Hình ảnh thơ thường gợi lên sự ngâm ngợi và liên tưởng. Hình ảnh trong thơ là một yếu tố được sử dụng để thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Hình ảnh có khi là nhân tố trực tiếp của nội dung, là những bức tranh nhỏ trong cuộc sống. Hình ảnh có khi có được qua sự so sánh: 
 Ca lô đội lệch 
 Mồm huýt sao vang
 Như con chim chích
 Nhảy trên đường vàng
 ( Lượm – Tố Hữu)
 Hình ảnh thơ có được nhờ miêu tả, qua cảm quan tinh tế cùng với cảm xúc dâng trào và tài năng nghệ thuật của tác giả: 
 Mọc giữa giòng sông xanh
 Một bông hoa tím biếc
 Ơi con chim chiền chiện
 Hót chi mà vang trời
 (Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải)
2.4.3. Ngôn ngữ thơ: Tìm hiểu thơ trữ tình không thể không tìm hiểu ngôn ngữ thơ. Thơ là tiếng nói hàm súc cô động nhưng lại có sức vang ngân. Ngôn ngữ thơ quan trọng đến mức một câu thơ có thể biểu hiện được một tình cảm lớn. Một chi tiết có thể biểu hiện được cả một sự kiện. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long từng viết: Tính tình là sợi dọc của văn từ. Văn từ là sợi ngang của tính tình. Sợi dọc có xác định mới dệt được sợi ngang vào. Tính tình có xác định , văn từ mới thông suốt. Đó là căn bản của việc làm văn. Cho nên vận dụng lời văn là để làm sáng tỏ nghĩa lý. Lời văn loè loẹt quái dị, tư tưởng tình cảm càng bị che mờ. Cũng như câu cá mà lấy lông trả làm dây, sâm nhung làm mồi thì làm sao câu được cá.
Ngôn ngữ có được từ cuộc sống của nhân dân, là mượn ở cuộc sống. Nhưng phải sàng sẩy gạn đục khơi trong, lọc lại cho chính xác, tinh vi, mới mẻ thì hình tượng thơ mới giàu, cảm xúc thơ mới có được Ngôn ngữ trong thơ tuy từ này nằm cạnh từ kia nhưng ý nghĩa câu thơ không phải là ý nghĩa riêng của các từ kia cộng lại mà đặc sắc là nó gây ra một ý nghĩa khác hẳn, bao trùm, có lúc gợi cảm, gợi nghĩ rất sâu và lắng đọng. Tài nghệ vân dụng ngôn ngữ của nhà thơ Thế Lữ để sáng tác bài thơ Nhớ rừng (Ngữ văn 8) đã được nhà phê bình Hoài Thanh đánh giá rất cao: Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng ta tưởng chừng thay những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được.
Phần III
Kết luận:
 Qua thực nghiệm giảng dạy cũng như qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về kiến thức chuyên môn và thực trạng dạy - học văn ở trường THCS hiện nay, bản thân tôi nhận thấy cần có một phương pháp truyền thụ đúng đắn, phù hợp, mới khơi được lòng ham muốn, tính tò mò và gây nên cảm xúc ở học sinh. Đồng thời đem lại tiếng nói đích thực cho bộ môn Ngữ văn. Bởi dạy văn là dạy tâm hồn, muốn thổi vào tâm hồn trẻ những cảm xúc, rung động thẩm mỹ, đồi hỏi ở giáo viên có được một tâm hồn văn chương phong phú, giàu cảm xúc, cùng với sự chủ động về kiến thức và phương pháp dạy học . Với những kinh nghiệm nói trên tuy chưa nhiều, chưa đủ, nhưng cũng là những vấn đề quan trọng, cơ bản nhất nhằm góp phần giúp giáo viên Ngữ văn, đặc biệt là những giáo viên nào chưa được nghiên cứu, tiếp cận nhiều với lý thuyết về phương pháp dạy học và lý luận văn học được hiểu rõ hơn. 
 Mai Hoá, ngày: 22 tháng 5năm 2009
 Người viết sáng kiến
 Lê Minh Châu

Tài liệu đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem mon ngu van(2).doc