1.1. Khái quát một số kiến thức về văn bản trong chương trình Ngữ văn 6,7,8.
1.2. Ôn tập kiểu bài nghị luận chứng minh.
1.3. Ôn tập kiểu bài nghị luận giải thích.
1.4. Kiểu bài nghị luận tổng hợp.
2.1. Nghị luận văn học: Nghị luận về một tác phẩm thơ, truyện hoặc một đoạn trích.
2.2 Nghị luận xã hội: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; một vấn đề tư tưởng đạo lí.
2.3. Củng có khắc sâu kiến thức và kĩ năng làm văn nghị luận với các đề văn cụ thể gắn với các kiến HS đã hoc ở các lớp Dưới.
PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO GIO LINH TRƯỜNG PTCS TRUNG GIANG Giáo viên : Nguyễn Văn Quế TÀI LIỆU THAM KHẢO BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 9 (phần 1) HỆ THỐNG KIẾN THỨC DẠY - HỌC THỜI GIAN TÊN CHUYÊN ĐỀ NỘI DUNG CƠ BẢN Tháng 8/20.. 1. Củng cố, ôn tập một số đơn vị kiến thức cũ. 2. Chuyên đề 1: Văn nghị luận 1.1. Khái quát một số kiến thức về văn bản trong chương trình Ngữ văn 6,7,8. 1.2. Ôn tập kiểu bài nghị luận chứng minh. 1.3. Ôn tập kiểu bài nghị luận giải thích. 1.4. Kiểu bài nghị luận tổng hợp. 2.1. Nghị luận văn học: Nghị luận về một tác phẩm thơ, truyện hoặc một đoạn trích. 2.2 Nghị luận xã hội: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; một vấn đề tư tưởng đạo lí. 2.3. Củng có khắc sâu kiến thức và kĩ năng làm văn nghị luận với các đề văn cụ thể gắn với các kiến HS đã hoc ở các lớp Dưới. Tháng 9/20.. Tháng10/ 20.. 3. Chuyên đề 2: Tìm hiểu về một số vấn đề lí luận văn học. 4. Chuyên đề 3: Khái quát về văn học trung đại Việt Nam 5. Chuyên đề 3: Nguyễn Dữ và tập “Truyền kì mạn lục” 6. Chuyên đề 4: Kĩ năng làm văn nghị luận. 3.1. Cung cấp một số kiến thức lí luận: văn học là gì, các chức năng văn học, thể loại văn học, nhà văn và quá trình sáng tác, văn học và sự tiếp nhận văn học... 3.2. Hướng dẫn cách vận dụng lí luận văn học trong làm văn nghị luận. 4.1. Khái quát chung về văn học trung đại Việt Nam: thành phần cấu tạo, các nội dung chính, đặc điểm thi pháp... 4.2. Giới thiệu chi tiết về văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ VI đến thế kỉ XVIII. 4.3. Các bài tập củng cố chuyên đề. 5.1. Giới thiệu khái quát về tác giả và tập “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. 5.2. Tìm hiểu chi tiết về “Chuyện người con gái Nam Xương” 5.3. Luyện đề củng cố kiến thức chuyên đề. 6.1. Rèn luyện các kĩ năng xác định đề, xây dựng dàn ý, dựng đoạn, hành văn, khái quát, liên hệ, nâng cao, vận dụng lí luận văn học... 6.2. Kết hợp luyện đề với kiến thức các chuyên đề đã học và các kiến thức mở rộng, tổng hợp. Tháng 10/ 20.. Tháng 11/ 20.. 7. Chuyên đề 5: “Truyện Kiều” Nguyễn Du 7.1. Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều”. 7.2. Tìm hiểu chi tiết các đoạn trích học và đọc thêm trong “Truyện Kiều”. 7.3. Luyện đề với các kiểu bài: thuyết minh, nghị luận, đặc biệt là các đề văn nâng cao mang tính khái quát so sánh. Tháng 11/20.. 8. Chuyên đề 6: Tác giả Nguyễn Đình Chiểu và “Truyện Lục Vân Tiên”. 8.1. Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm. 8.2. Tìm hiểu chi tiết các đoạn trích học và các văn bản khác của tác giả để hiểu thêm vẻ đẹp thơ văn và tâm hồn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. 8.3. Luyện đề khắc sâu kiến thức và tiếp tục rèn luyện kĩ năng làm văn. Tháng 12/20.. Tháng 1/20.. 9. Chuyên đề 8: Văn học hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. 9.1. Khái quát những nét lớn về lịch sử Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 và những đặc điểm của tình hình văn học thời kì này. 9.2. Tìm hiểu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu được học trong chương trình. 9.3. Tìm hiểu một số hình tượng chủ yếu của văn học giai đoạn này: hình tượng người lính, người lao động, người phụ nữ... 9.4. Luyện đề về văn học hiện đại Việt Nam. Tháng 2,3/20.. 10. Ôn tập tổng hợp và luyện đề 10.1. Củng cố kiến thức cơ bản và nâng cao trong chương trình. 10.2. Hệ thống những nét lớn từng thời kì văn học, từng chủ đề, so sánh, đối chiếu các vấn đề có sự tương đồng trong kiến thức chương trình. 10.3 Luyện đề tổng hợp, kết hợp với việc tiếp tục rèn kĩ năng làm văn của HS: làm văn nghị luận văn học và nghị luận xã hội. 11.1.Ngoài các bước tiến hành ôn tập nh trên, GV tích cực ra đề kiểm tra đánh giá, HS làm bài, chấm chữa bằng nhiều hình thức khác nhau. 11.2. Bổ sung những kiến thức về các văn bản khác trong chương trình (một số văn bản nước ngoài, các văn bản học thêm...), đặc biệt có thể còn có kiến thức của các lớp 6,7,8 11.3 Giải đáp các thắc mắc của HS. 11.4. Chuẩn bị điều kiện tốt nhất để HS tự tin tham gia kì thi HSG các cấp. MỘT SỐ NỘI DUNG THAM KHẢO PHẦN VĂN NGHỊ LUẬN A. MỤC TIÊU: - Giúp HS củng cố kiến thức về văn nghị luận đã học ở các lớp 7,8. - Hiểu thêm về một số kiểu bài nghị luận trong chương trình Ngữ văn 9: nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí; nghị luận về một tác phẩm thơ, truyện hoặc một đoạn trích trong tác phẩm văn học. - Rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận: kĩ năng xác định đề, kĩ năng lập ý, dựng đoạn, kĩ năng diễn đạt ... - Đây là những kiến thức xuyên suốt trong năm học lớp 9 nhưng vì sau mỗi chuyên đề ngoài việc cung cấp kiến thức về tác giả, tác phẩm còn có phần luyện đề nên nội dung kiến thức về văn nghị luận được tìm hiểu sớm góp phần rèn kĩ năng tổng hợp cho HS trong học tập môn Ngữ văn. B. CHUẨN BỊ: - Tài liệu tham khảo: + Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông (Nguyễn Quốc Siêu) + Nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận (Nhà xuất bản GD, nhiều tác giả) + Tập làm văn THCS (Tạ Đức Hiền) + Dạy học Tập làm văn THCS (Nguyễn Trí, NXB GD)... - GV tổng hợp lí thuyết về văn nghị luận và các bài tập rèn luyện kĩ năng. - HS củng cố kiến thức về văn nghị luận đã học và đọc tài liệu bổ sung kiến thức. C. NỘI DUNG: I. Ôn tập văn nghị luận: - Khái quát chung về văn nghị luận: đặc điểm của văn nghị luận, đề văn nghị luận, lập ý cho bài văn nghị luận (phần này GV hướng dẫn HS tự ôn tập theo kiến thức Ngữ văn 7) - Phương pháp lập luận trong bài văn nghị luận: phép lập luận chứng minh, phép lập luận giải thích, xây dựng và trình bày luận điểm trong văn nghị luận...(phần này GV hướng dẫn HS tự ôn tập theo kiến thức Ngữ văn 8) - Các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả rtong văn nghị luận. - GV chú ý các tiêu chí của dẫn chứng văn chứng minh, lí lẽ trong văn giải thích. II. Giới thiệu các kiểu bài nghị luận trong chương trình Ngữ văn 9. 1. Phần lí thuyết: a. GV cung cấp các kiến thức lí thuyết cơ bản về các kiểu bài nghị luận: khái niệm, nội dung nghị luận, hình thức - bố cục bài văn nghị luận, dàn bài chung của các kiểu bài: - Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. - Nghị luận về một vấn đề t tuởng, đạo lí. - Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc một đoạn trích). - Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. b. GV chú ý phân biệt giữa các kiểu bài nghị luận: - Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống lấy sự việc, hiện tượng đời sống làm đối tượng chính; nghị luận vè một vấn đề tư tưởng đạo lí lấy tư tưởng đạo lí làm đối tượng chính. Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống đi từ sự việc, hiện tượng cụ thể mà nâng lên thành vấn đề tư tưởng đạo đức; nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí thì từ vấn đề tư tưởng đạo đức mà suy nghĩ về cuộc sống xã hội sau khi được giải thích, phân tích thì vận dụng các sự việc, thực tế đời sống để chứng minh nhằm trở lại khẳng định (hay phủ định) một t tổng nào đó. - Nghị luận về một tác phẩm truyện (về nội dung, nghệ thuật, nhân vật, đoạn tích của tác phẩm) cần chú ý tới các đặc điểm của truyện: kết cấu, tình huống, chi tiết, sự việc, ngôn ngữ nhân vật... Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần chú ý tới các đặc điểm của thơ: ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, cảm xúc, vần nhịp, các biện pháp tu từ ... 2. Kĩ năng làm bài văn nghị luận: a. Kĩ năng xác định đề: - Đọc kĩ đề, lu ý những từ ngữ quan trọng gợi hướng làm bài. - Xác định đúng kiểu bài nghị luận để tránh nhầm lẫn về phương pháp . - Xác định nội dung nghị luận để tránh lạc đề. - Xác định phạm vi t liệu cho bài viết. - GV đặc biệt lu ý kiểu ra đề có mệnh lệnh và không có mệnh lệnh, những đề mở để HS làm quen với những yêu cầu mới trong làm văn nghị luận, nhất là các đề nghị luận xã hội. b. Kĩ năng tìm ý và lập dàn ý: - Một bài văn hay trước hết là phải có những ý hay. Ý hay là ý đúng, sâu, mới và riêng. Khi tìm ý cần chú ý một số vấn đề sau: + Có những nhận xét khái quát từ những vấn đề nổi bật, tiêu biểu trong nội dung nghị luận. + Đề xuất luận điểm từ sự so sánh những nội dung, đối tượng cùng loại. + Xây dựng ý từ những ý kiến phản đề. + Đặt các câu hỏi tìm ý, nhất là đối với kiểu bài nghị luận xã hội... - Lập dàn ý, sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lí. c. Kĩ năng dựng đoạn: - Viết đoạn mở bài: + Mở bài theo cách trực tiếp. + Mở bài theo cách gián tiếp (chú ý rèn kĩ đối với HSG). - Viết các đoạn trong phần thân bài: + Các cách lập luận: diễn dịch, quy nạp, tổng hơp - phân tích... + Kĩ năng liên kết giữa các đoạn văn: sử dụng từ ngữ, câu để liên kết. - Viết đoạn kết bài: + Xây dựng đoạn kết bài tương ứng với mở bài. + Các cách kết bài mở... * Trong quá trình dựng đoạn, chú ý kĩ năng dùng từ, đặt câu, phát triển ý để tăng chất văn và độ sâu sắc cho bài viết. Kết hợp các kiến thức GV cung cấp, các ví dụ minh hoạ, cần dành thời gian cho HS luyện viết và chấm chữa, phát huy tính sáng tạo của HS trong làm văn. Chuyên đề TỪ VĂN BẢN ĐẾN BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI A. CƠ SƠ LÍ LUẬN Tích hợp là quan điểm cơ bản của việc đổi mới nội dung chương trình SGK và đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Ngữ văn của nhiều năm nay. Trong chương trình SGK Ngữ văn THCS, các tác giả biên soạn đã thể hiện rất rõ quan điểm tích hợp này ở mọi hình thức: tích hợp ngang giữa các phân môn, tích hợp dọc, tích hợp đồng tâm... Sự đổi mới này không chỉ giúp HS có được kiến thức tổng hợp mà còn có kĩ năng tốt hơn trong quá trình học và làm văn. Trong các kiểu làm văn, SGK Ngữ văn cũng đã thực sự chú ý đến kĩ năng vận dụng kiến thức tác phẩm để phục vụ cho các bài làm văn nghị luận văn học nh: chứng minh, giải thích, phân tích một đoạn thơ, đoạn truyện hoặc một tác phẩm thơ, một tác phẩm truyện. Bên cạnh đó còn có kiểu bài nghị luận xã hội giúp HS không chỉ rèn luyện tốt kĩ năng làm văn nghị luận mà còn có thêm cách nhìn, cách nghĩ về xã hội sâu sắc hơn, nhận thức được rõ hơn vai trò của mỗi cá nhân trước những vấn đề xã hội ngày nay. Có một điều thật lí thú là trong các tác phẩm văn học được học trong chương trình Ngữ văn, mỗi tác phẩm không chỉ là một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống, là một nét tâm hồn của con người mà những tác phẩm đó còn có khả năng bồi đắp tâm hồn người đọc, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời và con người quanh ta. Chính vì vậy các tác phẩm văn học này thực sự đã trở thành một nguồn tư liệu quý, là những đề tài phong phú cho bài làm văn nghị luận xã hội. Việc vận dụng kiến thức có trong văn bản vào làm văn nghị luận xã hội không chỉ giúp HS củng cố lại kiến thức văn bản mà còn giúp các em thành thạo hơn về kĩ năng làm văn và biết đi từ văn học đến cuộc sống. Bài viết này xin được bàn về kĩ năng vận dụng kiến thức văn bản được học trong chương trình Ngữ văn đến việc làm văn nghị luận xã hội với mục đích khẳng định tác dụng của quan điểm tích hợp trong đổi mới phương pháp dạy học và bàn thêm về kĩ năng làm văn của HS trong nhà trường. B. NỘI DUNG CHÍNH. I. Ý nghĩa xã hội của các tác phẩm văn học trong chương trình Ng ... âm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình, với mọi người về lẽ sống chung thuỷ, nghĩa tình. Cách 2: Thơ xưa cũng như nay, thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các nhà văn, nhà thơ. Đặc biệt là ánh trăng. Xưa, Lý Bạch khi đối diện với vầng trăng đó giật mình thảng thốt nhớ cố hương. Nay, Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ sau năm 1975 cũng góp vào mảng thơ thiên nhiên một ánh trăng.Và đối diện trước vầng trăng, người lính đó giật mình về sự vụ tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đó qua. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ. Cách 3: Ta gặp đâu đây ngòi bút tài hoa của Nguyễn Duy trong Tác phẩm : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”..... Nhưng khi hoà bình lập lại, ụng đó chuyển sang một trang mới viết về sự chuyển mình của đất nước, của con người cuộc sống đời thường đang che lấp mất dần những điều đáng quý mà họ vốn có. Bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ tiêu biểu cho chủ đề đó. Bài thơ như một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đó qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước đồng thời thức dậy trong tâm hồn người lính lòng trung hiếu trọn vẹn với nhân dân. Cách 4: Trăng trong thơ vốn là một vẻ đẹp trong trẻo, tràn đầy, đó là cái gỡ lóng mạn nhất trong cuộc đời, nhất là trong hai trường hợp: khi con người ta còn ở tuổi ấu thơ hoặc khi có những tâm sự cần phải chia sẻ, giải bầy. Ánh trăng của Nguyễn Duy là cái nhìn xuyên suốt cả hai thời điểm vừa nêu. Chỉ có điều, đây không phải là một cái nhìn xuôi, bình lặng từ trước đến sau, mà là cách nhìn ngược: từ hôm nay mà nhìn lại để thấy có cái hôm qua trong cái hôm nay. Bài thơ như một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian nhắc nhở về một thời đó qua của người lính gắn bó với thiên nhiên, bình dị, hiền hoà, với nghĩa tình đằm thắm sáng trong. II. Thân bài. 1. Đề tài “Ánh trăng” - Đây là một đề tài quen thuộc của thơ ca xưa đặc biệt là thơ lóng mạn: (Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay (Hàn Mạc Tử); khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền (HCM); Ngẩng đầu nhìn trăng sáng. Cúi đầu nhớ cố hương (Lý Bạch) - Với Nguyễn Duy, ánh trăng không chỉ là niềm thơ mà còn được biểu đạt một hàm nghĩa mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại: Ánh trăng là biểu tượng cho quá khứ trong mỗi đời người. 2. Phân tích tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy qua bài thơ “Ánh trăng”. a. Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ Trước hết là Hình ảnh vầng trăng tình nghĩa, hiền hậu, bình dị gắn liền với kỉ niệm một thời đó qua, một thời nhà thơ hằng gắn bó. - Ánh trăng gắn với những kỉ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê: “Hồi nhỏ sống với rừng Với sông rồi với biển” - Nhớ đến trăng là nhớ đến không gian bao la. Những “đồng, sông, bể” gọi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, có những lúc sung sướng đến hả hê được chan hoà, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dũng sữa ngọt. - Những năm tháng gian lao nơi chiến trường, trăng thành người bạn tri kỉ, gắn với những kỉ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh ác liệt của người lính trong rừng sâu: khi trăng treo trên đầu súng, trăng soi sáng đường hành quân. Vầng trăng ấy cũng là “quầng lửa” theo cách gọi của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trăng thành người bạn chia sẻ ngọt bùi, đồng cảm cộng khổ và những mất mát hi sinh, vầng trăng trở thành người bạn tri kỉ với người lính. “Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỉ Trần trụi với thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ Ngỡ không bao giờ quên Cái vầng trăng tình nghĩa” - Con người khi đó sống giản dị, thanh cao, chân thật trong sự hoà hợp với thiên nhiên trong lành: “trần trụi với thiên nhiên - hồn nhiên như cây cỏ”. Cuộc sống trong sáng và đẹp đẽ lạ thường. - Hôm nay, cái vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa ấy đó là quá khứ kỉ niệm của con người. Đó là một quá khứ đẹp đẽ, ân tình, gắn với hạnh phúc và gian lao của mỗi con người và của đất nước. - Lời thơ kể không tả mà có sức gợi nhớ, âm điệu của lời thơ như trùng xuống trong mạch cảm xúc bồi hồi. b. Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại. * Vầng trăng - người dưng qua đường. - Sau tuổi thơ và chiến tranh, người lính từ gió núi rừng trở về thành phố - nơi đô thị hiện đại. Khi đó mọi chuyện bắt đầu đổi khác: Từ hồi về thành phố Quen ánh điện cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ Như người dưng qua đường - Vầng trăng tri kỉ ngày nào nay đó trở thành “người dưng” - người khách qua đường xa lạ, còn con người đâu còn son sắt thuỷ chung? => Một sự thay đổi phũ phàng khiến người ta không khỏi nhói đau. Tình cảm xưa kia nay chia lìa. - NT đối lập với khổ 1,2, giọng thơ thầm thì như trũ chuyện tâm tình, giói bày tâm sự với chính mình. Tác giả đó lí giải sự thay đổi trong mối quan hệ tình cảm một cách lô gíc. - Vỡ sao lại cú sự xa lạ, cách biệt này? + Sự thay đổi của hoàn cảnh sống- không gian khác biệt, thời gian cách biệt, điều kiện sống cách biệt: Từ hồi về thành phố, người lính xưa bắt đầu quen sống với những tiện nghi hiện đại như “ánh điện, cửa gương”. Cuộc sống công nghiệp hoá, hiện đại hoá của điện gương đó làm ỏt đi sức sống của ánh trăng trong tâm hồn con người. Trăng lướt nhanh như cuộc sống hiện đại gấp gáp, hối hả không có điều kiện để con người nhớ về quá khứ. Và anh lính đó quên đi chính ánh trăng đó đồng cam cộng khổ cùng người lính, quên đi tình cảm chân thành, quá khứ cao đẹp nhưng đầy tình người. Câu thơ dưng dưng - lạnh lùng - nhức nhối, xót xa miêu tả một điều gỡ bội bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống. Có lẽ nào sự biến đổi về kinh tế, về điều kiện sống tiện nghi lại kéo theo sự thay dạ đổi lòng? (liờn hệ: bởi thế mà ca dao mới lờn tiếng hỏi: “Thuyền về có nhớ bến chăng?”; Tố Hữu, nhân dân Việt bắc ở lại cũng băn khoăn một tâm trạng ấy khi tiễn đưa cán bộ về xuôi: Mình về thành thị xa xụi Nhà cao còn thấy nỳi đồi nữa chăng? Phố đông còn nhớ bản làng Sáng đêm còn nhớ mảnh trăng giữa rừng? ) => Từ sự xa lạ giữa người với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở: đừng để những giá trị vật chất điều khiển chúng ta.... * Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng. - Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một thời điểm không ngờ. Tình huống mất điện đột ngột trong đêm khiến con người vốn đó quen với ánh sáng, không thể chịu nổi cảnh tối om nơi căn phòng buyn đinh hiện đại. Ba động từ “vội, bật, tung” đặt liền nhau diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương, hối hả của tác giả để đi tìm nguồn sáng. Và Hình ảnh vầng trăng tràn tình cờ mà tự nhiên, đột ngột hiện ra vằng vặc giữa trời, chiếu vào căn phòng tối om kia, chiếu lên khuôn mặt đang ngửa lên nhìn trời, nhìn trăng kia. => Tình huống gặp lại trăng là bước ngoặt tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm và suy nghĩ của nhân vật trữ tình với vầng trăng. Vầng trăng đến đột ngột đó làm sáng lờn cái góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên trong điều kiện sống của con người đó hoàn toàn đổi khác. - Bất ngờ đối diện với vầng trăng, con người đó cú cử chỉ, tâm trạng: Ngửa mặt lờn nhìn mặt Cú cỏi gỡ rưng rưng. - Tư thế “ngửa mặt lờn nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tràn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc! - Cảm xúc “rưng rưng” là biểu thị của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương khi gặp lại bạn tri kỉ. Ngôn ngữ bây giờ là nước mắt dưới hàng mi. Một tình cảm chừng như nén lại nhưng cứ trào ra đến thổn thức, xót xa. Cuộc gặp gỡ không tay bắt mặt mừng này đó lắng xuống ở độ sâu của cảm nghĩ. Trăng thì vẫn phóng khoáng, vụ tư, độ lượng biết bao, như “bể”, như “rừng” mà con người thì phụ tình, phụ nghĩa. - Trước cái nhìn sỏm hối của nhà thơ, vầng trăng một lần nữa như gợi lên bao cái “cũn” mà con người tưởng chừng như đó mất. Đó là kỉ niệm quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn nghốo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên - vầng trăng là bạn tri kỉ, là tình nghĩa. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. - Bài thơ khép lại ở Hình ảnh: “Trăng cứ tràn vành vạnh .......... đủ cho ta giật mình” - Trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào. Ở đây có sự đối lập giữa “tràn vành vạnh” và “kẻ vụ tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. + Trăng tròn vành vạnh, trăng im phăng phắc không giận hờn trách móc mà chỉ nhìn thôi, một cái nhìn thật sâu như soi tận đáy tim người lính đủ để giật mình nghĩ về cuộc sống hoà bình hôm nay. Họ đó quên mất đi chính mình, quên những gỡ đẹp đẽ, thiêng liêng nhất của quá khứ để chìm đắm trong một cuộc sống xô bồ, phồn hoa mà ít nhiều sẽ mất đi những gỡ tốt đẹp nhất của chính mình. + Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. Ánh trăng chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tràn đầy, bất diệt. - Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lí có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nụng nổi trong cách sống của mình. Cỏi “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Câu thơ thầm nhắc nhở chính mình và cũng đồng thời nhắc nhở chúng ta, những người đang sống trong hoà bình, hưởng những tiện nghi hiện đại, đừng bao giờ quên công sức đấu tranh cách mạng của biết bao người đi trước. III. Kết luận: Cách 1: Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy về sự vụ tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đó qua. Thơ của Nguyễn Duy không hề khai thác cái đẹp của trăng, nhưng ánh trăng trong thơ ông vẫn mói làm day dứt người đọc - sự day dứt về những điều được và mất, nên và không, khi sống trong cuộc đời. Vẻ đẹp ấy mới chính là vẻ đẹp của văn chương cách mạng vì thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, con người mà còn “dạy” ta cách học làm người. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi. Ánh trăng thật sự đó như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đó ngủ ngon trong quên lãng. Cách 2: Bài thơ khép lại nhưng đó để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nguyễn Duy - một phong cách rất giản dị nhưng mang triết lí sâu xa. Nó gợi ra trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về cách sống, cách làm người “uống nước nhớ nguồn” ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ.
Tài liệu đính kèm: