Tài liệu sinh hoạt ngoại khóa chủ điểm Địa lý trong ca dao, dân ca Việt Nam

Tài liệu sinh hoạt ngoại khóa chủ điểm Địa lý trong ca dao, dân ca Việt Nam

Tục ngữ ca dao, dân ca. Một loại hình văn hóa độc đáo của người dân Việt Nam, là những sáng tác dân gian được truyền miệng, phổ biến rộng rãi từ đời này qua đời khác, từ vùng này qua vùng khác, được chỉnh sửa cho phù hợp với từng địa phương. Nó thể hiện mọi mặt của cuộc sống. Trong quá trình lao động lý trí của con người, cảm quan thẩm mỹ được tôi luyện, thể hiện những quan sát những kinh nghiệm về sản xuất, về thời tiết, về trồng trọt, chăn nuôi . Mặc dù cho đến nay với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại, sự hiểu biết của loài người về thế giới đã có nhiều tiến bộ, song những câu tục ngữ, ca dao vẫn còn nguyên giá trị.

1/Mối quan hệ giữa tự nhiên với tự nhiên:

Bài “Hệ quả chuyển động xung quanh mặt trời của trái đất” để khắc sâu kiến thức về hiện tượng “Ngày đêm, dài ngắn theo mùa”. Câu ca dao:

“Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng

Ngày tháng mười chưa cười đã tối”

Bài “Sóng và thủy triều” để giải thích hiện tượng con nước triều “cường”, “kém” liên quan đến vị trí cửa mặt trăng, mặt trời và trái đất trong không gian, liên hệ hiện tượng trăng khuyết thời kỳ triều “kém”, ca dao có câu: “Mồng một lưỡi trai, mồng hai lưỡi hái

Mồng ba câu liêm, mồng bốn liềm cụt”

Mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên rất khăng khít, chúng hoạt động theo một quy luật thống nhất và hoàn chỉnh. Chỉ một thành phần tự nhiên thay đổi sẽ làm cả tổng hợp thể tự nhiên thay đổi theo, mà nguyên nhân sâu xa là sự thay đổi của bức xạ Mặt trời, do “chuyển động biểu kiến” từ nửa cầu này sang nửa cầu kia của Mặt trời: Khi Mặt trời chuyển động về phía cầu nào thì các yếu tố: nhiệt độ, khí áp, hướng gió, mưa, sự phát triển của sinh vật sẽ thay đổi tạo ra cảnh quan địa lý đặc trưng theo mùa. Trong các câu tục ngữ, ca dao đã thể hiện những quan sát tinh tế về mối quan hệ gữa thời tiết với sinh vật:

“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa

Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”

 

doc 7 trang Người đăng duyphuonghn Lượt xem 743Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu sinh hoạt ngoại khóa chủ điểm Địa lý trong ca dao, dân ca Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD&ĐT TÂN HIỆP 
TRƯỜNG THCS TÂN HIỆP A5
TÀI LIỆU SINH HOẠT NGOẠI KHÓA
CHỦ ĐIỂM: 
 Địa lý trong ca dao, dân ca Việt Nam
Tục ngữ ca dao, dân ca. Một loại hình văn hóa độc đáo của người dân Việt Nam, là những sáng tác dân gian được truyền miệng, phổ biến rộng rãi từ đời này qua đời khác, từ vùng này qua vùng khác, được chỉnh sửa cho phù hợp với từng địa phương. Nó thể hiện mọi mặt của cuộc sống. Trong quá trình lao động lý trí của con người, cảm quan thẩm mỹ được tôi luyện, thể hiện những quan sát những kinh nghiệm về sản xuất, về thời tiết, về trồng trọt, chăn nuôi ... Mặc dù cho đến nay với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại, sự hiểu biết của loài người về thế giới đã có nhiều tiến bộ, song những câu tục ngữ, ca dao vẫn còn nguyên giá trị.
1/Mối quan hệ giữa tự nhiên với tự nhiên:
Bài “Hệ quả chuyển động xung quanh mặt trời của trái đất” để khắc sâu kiến thức về hiện tượng “Ngày đêm, dài ngắn theo mùa”. Câu ca dao:
“Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối”
Bài “Sóng và thủy triều” để giải thích hiện tượng con nước triều “cường”, “kém” liên quan đến vị trí cửa mặt trăng, mặt trời và trái đất trong không gian, liên hệ hiện tượng trăng khuyết thời kỳ triều “kém”, ca dao có câu: “Mồng một lưỡi trai, mồng hai lưỡi hái
Mồng ba câu liêm, mồng bốn liềm cụt”
Mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên rất khăng khít, chúng hoạt động theo một quy luật thống nhất và hoàn chỉnh. Chỉ một thành phần tự nhiên thay đổi sẽ làm cả tổng hợp thể tự nhiên thay đổi theo, mà nguyên nhân sâu xa là sự thay đổi của bức xạ Mặt trời, do “chuyển động biểu kiến” từ nửa cầu này sang nửa cầu kia của Mặt trời: Khi Mặt trời chuyển động về phía cầu nào thì các yếu tố: nhiệt độ, khí áp, hướng gió, mưa, sự phát triển của sinh vật sẽ thay đổi tạo ra cảnh quan địa lý đặc trưng theo mùa. Trong các câu tục ngữ, ca dao đã thể hiện những quan sát tinh tế về mối quan hệ gữa thời tiết với sinh vật:
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”
Người nông dân chỉ đúc kết kinh nghiệm về thay đổi thời tiết của độ bay cao, thấp của con chuồn chuồn. Còn học sinh khi học phần khí hậu (khí quyển, khí áp, gió, mưa...) sẽ giải thích độ cao, thấp của chuồn chuồn khi bay với hiện tượng “mưa, nắng” là do yếu tố áp suất không khí và độ ẩm...
Cũng là hiện tượng thời tiết:
“Gió heo may, chuồn chuồn bay thì bão”
Hiện tượng “gió heo may” loại gió nhẹ, hơi lạnh và khô thường thổi vào mùa thu (đầu đông) ở vùng Bắc bộ. Thời gian từ tháng 9, 10 dương lịch. Mùa này thường không có mưa, nên để chỉ tính chất của thời tiết này ông cha ta xưa mới có câu trên.
Chỉ cần quan sát sự xuất hiện của những đàn kiến di chuyển cùng với “lương thực, thực phẩm...” từ dưới đất lên cao thì sẽ có mưa bão lớn. Với câu:
“Tháng bảy kiến đàn
Đại hàn hồng thủy”
Vào tháng 7, mùa hè của nửa Cầu Bắc (Việt Nam), nhiệt độ không khí ở trên lục địa cao trở thành khu áp thấp hút gió (khối khí ẩm) từ Thái Bình dương vào gây nên những trận mưa lớn cùng với sự xuât hiện của các khí áp thấp gây nên mưa bão ở Bắc bộ và Bắc trung Bộ. Cũng là khối khí ẩm từ cao áp Thái Bình Dương gây nên kiểu thời tiết mưa lớn bằng thực tế trong dân gian có câu:
“Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy” 
Nhưng nếu thấy: “Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi”-
Hay:“Cơn đàng Bắc đổ thóc ra phơi”
Do ảnh hường của địa hình: dãy Hoàng Liên Sơn ở Bắc Bộ, dãy Trường Sơn Bắc (Bắc Trung Bộ) nên khi có gió Tây Nam (gió Nam) chỉ gây mưa ở Nam bộ và Tây Nguyên. Còn ở vùng đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ và ven biển Nam Trung Bộ không có mưa. Tương tự “cơn đàng Bắc...” là ảnh hưởng của khối khí ôn đới xuất phát từ cao áp lục địa (Xibêri) tính chất lạnh và khô nên không gây mưa. Hay “tháng tám nắng rám trái bưởi”. Do đặc điểm lãnh thổ nước ta trải dài trên những vĩ độ (150 vĩ tuyến) lưng dựa vào dãy Trường Sơn mặt hướng ra biển Đông hùng vĩ nên cảnh quan thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển.
“Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang
Mây kéo lên ngàn, thì mưa như trút”
Bài “Sóng và thủy triều” giảng đến phần các dạng địa hình bờ biển, ngoài ra dại hình Fiô ở Bắc Ấu, bải biển đẹp nổi tiếng, với những vũng, vịnh nước sâu để xây dựng các hải cảng. Để liên hệ với dạng địa hình, cảnh quang độc đáo của Bắc Trung Bộ có thể giới thiệu câu:
“ Thương anh, em cũng muốn vô
Sợ Truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
“Truông”- địa hình đồi cỏ cằn cõi ở Bắc Trung Bộ (Hà Tĩnh) rất phổ biến. Phá Tam Giang, Vùng nước biển ăn sâu vào lục địa thông với cửa biển hẹp (Cửa Thuận An, cửa Tư Hiền) thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Phá được 3 con sông đổ nước ngọt vào: Sông ô Lâu, Sông Bồ, Sông Hương, tạo một vùng nước lợ với quần thể thủy sinh độc đáo như: Cá hanh, cá dìa, cá đối, cá liệt, tôm rằn, đặc biệt dưới đáy thảm rong phát triển rất dày. Nguồn phân hữu cơ được người dân khai thác bón cho hoa màu.
2/Mối quan hệ giữa tự nhiên với hoạt động sản xuất:
Người nông dân Việt Nam trải qua bao khó khăn gian khổ, chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt (thiên tai) để sản xuất Nông nghiệp. Họ đã có những kinh nghiệm được đúc kết thể hiện tính mùa vụ khắt khe. Để nhắc nhở đã có câu:
“Tháng Một là tháng trồng khoai
Tháng Hai trồng đậu, tháng Ba trồng cà”
Đây là câu tục ngữ ca dao sử dụng khi dạy phần “các mùa trong năm”. Do trái đất là hình quả cầu, cùng một lúc thực hiện 2 chuyển động (tự quay) và chuyển động xung quanh Mặt trời. Quỹ dạo chuyền động xung quanh mặt trời là đường Elíp, từ đó sinh ra hiện tượng các mùa trong năm.
+Từ 21-3 đến 22-6: Mùa xuân
+Từ 22-6 đến 23-9: Mùa hạ
+Từ 23-9 đến 22-2: Mùa thu
+Từ 22-12 đến 22-3: Mùa đông - (trong thực tế các mùa thường sớm hơn 40-45 ngày).
Mỗi mùa, điều kiện bức xạ mặt trời, nhiệt độ không khí, khí áp gió mưa (nhiệt, ẩm) thích nghi với sự phát triển của từng loại cây trồng nên có câu ca trên. Hiện nay sự tác động của khoa học, việc ứng dụng các kỹ thuật trong sản xuất. Con người có thể làm thay đổi cơ cấu mùa vụ, song ấn tượng “mùa nào, thức nấy” vẫn thơm, ngon hơn.
Đặc điểm phụ thuộc vào diễn biến của tự nhiên trong sản xuất nông nghiệp được thể hiện qua con mắt của người nông dân với câu hát mong mùa
“Mồng chín, tháng chín có mưa
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng chín, tháng chín không mưa
Thì con bán cả cày bừa đi buôn”
Tháng 9, người nông dân bắt tay vào cày bừa vụ đông xuân (vụ Chiêm), nếu có mưa thường là do hoạt động của loại gió mậu dịch (Khối khí- chí tuyến khô-T) từ biển vào nên thường có mưa (gió Đông Bắc)
 Từ kinh nghiệm thực tế có câu: “Đói thì ăn ráy, ăn khoai
Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng”
Lúa trổ vào tháng hai (âm lịch) thời kỳ hoạt động mạnh của các đợt, gió mùa Đông Bắc (bấc) gió to, khô nên lúa sẽ “ngậm đòng, đứng bông”.
“Trời nồm tốt mạ, trời giá tốt rau”
Mùa hè ở Việt Nam thì chịu tác động của gió mùa mùa hè: Đông Nam có mưa, Tây nam khô nóng (trừ Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long có mưa). Khi gieo mạ có gió Đông Nam nhiệt, ẩm phong phú, cây mạ phát triển xanh tốt. Thời tiết lạnh (giá) lại phù hợp với các loại cây thực phẩm ôn đới, cận nhiệt được trồng nhiều ở vùng Bắc bộ: bắp cải, su hào, cà chua, súp lơ, cà rốt và cả các loại cây ăn quả: đào, lê, mận...đặc sản vùng miền Bắc.
3/Tình cảm của người nông dân với công cụ lao động:
Với công cụ lao động thô sơ, năng suất thấp. Người nông dân coi “cày, bừa, con trâu, bò” là những người bạn thân thiết.
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”
Nên: “Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta”
Đất là tư liệu sản xuất chính trong hoạt động sản xuất nông nghiệp nên đất với người nông dân được coi là tài sản quí:
“Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu”.
4/ Bản chất “thi sĩ” của người nông dân trước cảnh quan thiên nhiên:
Hình ảnh người nông dân “chân lấm, tay bùn” sẽ bị xóa nhòa nếu giáo viên đưa một số câu ca dao vào bài khi dạy phần cảnh quan thiên nhiên của vùng nhiệt đới gió mùa...có lẽ sự cảm nhận của học sinh lúc này: Họ (người nông dân) là những “thi sĩ” lãng mạn - “tức cảnh sinh tình” trước vẻ đẹp của thiên nhiên - Lòng người dồn nén những tình cảm yêu thương.
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”
Về đèo Hải Vân:
“Hải Vân bát ngát ngàn trùng
Hòn Hồng ở đấy là trong Vinh Hàn”
Hải Vân: biển và mây đan xen với rừng (ngàn trung) của dãy Bạch Mã. “Bức tường khí hậu” tạo sự phân hóa khí hậu giữa miền Bắc và miền Nam (160Bắc). Nơi có quần thể sinh vật đa dạng độc đáo cùng sự phân hóa theo độ cao (1.400m). Ở đó: Có núi, biển, mây, sông (sông Hàn). Thật hữu tình khi đến bán đảo Sơn Trà nhìn ra biển, lên núi
Vào Nam bộ:	“Xứ Cần Thơ nam thanh nữ tú
Xứ Rạch Giá vượn hú, chim kêu”
Hay:	“Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm”
Không chỉ tả cảnh đẹp của thiên nhiên (vùng đồng bằng sông Cửu Long) mà câu ca còn cho học sinh thấy được sự ưu ái của thiên nhiên với người dân đồng bằng châu thổ rộng lớn ( hơn 4triệu ha) màu mỡ, nguồn thủy sản dồi dào. Dùng từ, đặt chữ khéo, họ đã  thầm khoe sự giàu có của mình thật khéo léo.
5/Tình yêu quê hương đất nước:
Cuộc sống với bao khó khăn, vất vả chống chọi với bão lụt, hạn hán, mất mùa.
“Áo rách, chi lắm áo ơi !
Áo rách trăm mảnh, không nơi rận nằm”
Câu ca nghe xót xa “...chi lắm áo ơi !” tha thiết, nhưng họ lo áo rách “...không nơi rận nằm” thật tế nhị. Áo không còn miếng lành để cho con vật nhỏ tí nằm, không chỉ thương cho mình mà còn thể hiện tình thương với con vật gắn liền với sự nghèo khổ.
Ấy vậy mà, cảnh nghèo túng, bữa cơm đạm bạc lại là “sợi dây” níu kéo tình cảm của người nông dân xa xứ	“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”
Tình cảm dâng trào của người học không dừng lại trước những câu ca dao trên mà nó tiếp tục được thăng hoa khi học sinh thấy được người nông dân cầu mong ông trời để có mưa thuận, gió hòa để sản xuất	“Cầu cho mưa thuận, gió hòa
Để tôi đi cấy, trẻ nhà nó chơi”
6/Tính thanh liêm, đạo đức của người nông dân:
Họ còn nghèo, khó lắm song họ là những con người luôn đề cao cuộc sống thanh liêm.
“Đói cho sạch, rách cho thơm”
Hay:	“Có vất vả mới thanh nhàn
Không dưng ai dễ cầm tàn che cho”
Cần, kiệm, liêm khiết, thật thà, chất phác là bản chất của người nông dân Việt Nam, nên những câu tục ngữ luôn đau đáu những lời răn dạy về cách đối nhân xử thế. Họ không dạy con bằng những cái bắt tay, cúi đầu chào lịch lãm
Mà:
“ Một câu nhịn, chín câu lành”
“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”
Quan hệ hàng xóm láng giềng, thủy chung...
“Bán họ hàng xa, mua láng giềng gần”
Hay :	“Mất của dễ tìm, mất lòng khó kiếm”
7/Tính chiến đấu trong tục ngữ ca dao
Giản dị, thanh cao nhưng chính họ, những người “lính áo vải” không phải bằng vũ khí súng đạn, mà bằng đầu óc hài hước, châm biếm được thể hiện bằng câu cú, ngữ điệu đánh thẳng vào mặt bọn quan tham, cường hào ác bá:
“Muốn nói gian, làm quan mà nói”
“Miệng quan, trôn trẻ”
Hay:	“ Ai ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”
Đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội, với những cầu: “Vạch lá tìm sâu”
Hay sự lười nhác: 	“Làm như nhát bỏ dĩa”
Câu tục ngữ:
“Ngồi dưng, ăn hoang
Mỏ vàng cũng cạn”
đả kích những kẻ lười nhác trong xã hội.
Yêu lao động, yêu hòa bình yêu quê hương đất nước, tình yêu đó đã đúc kết một tinh thần quyết tâm bảo về quê hương đất nước. Đối chọi với thiên nhiên khác nghiệt, đương đầu với cuộc sống còn đầy khó khăn. Trong tục ngữ ca dao, Người nông dân còn thể hiện họ sẵn sàng quyết chiến, quyết thắng với kẻ thù xâm lăng.
“Đố ai quét sạch lá rừng
Đố ai cướp được cả rừng lòn bon”
Hay	“Đố ai cắt nước làm đôi
Vành trăng xẻ nửa, Mặt trời chia hai”
8/Tính nhân văn:
Tính nhân văn trong câu tục ngữ, ca dao đã cho thấy con người Việt Nam từ xa xưa đã đề cao “tình người” trước thiên nhiên, trong quan hệ xã hội và đặc biệt thể hiện tính nhân đạo, sự bao dung trước những lỗi lầm, trước những kẻ thù qua những câu: “Đánh kẻ chạy đi, chứ ai đánh kẻ chạy lại”.
9/ Ý nghĩa giáo dục qua sử dụng tục ngữ ca dao dân ca trong giảng dạy Địa lí:
Thật tự hào khi được là thế hệ con, cháu, của một dân tộc mà cuộc sống gian khổ của họ lại được nghệ thuật hóa bằng những câu ca dễ nhớ, dễ nghe, dễ phổ biến. Những bài học về địa lý sinh động, khắc sâu được kiến thức về khoa học Địa lý, bằng cách lồng ghép đưa tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam mà còn có ý nghĩa sâu sắc góp phần hình thành nhân cách cho học sinh trong thời kỳ hội nhập với khu vực, với thế giới hiện nay. Các em biết tiếp thu có chọn lọc tinh hoa tiên tiến của thế giới đồng thời phải biết kế thừa nét văn hóa độc đáo, giàu bản sắc của dân tộc. vào mỗi phần bài học lớp 10. Không chỉ là “Bức tranh thiên nhiên, con người Việt Nam".
Hình ảnh “Người công nhân làm nông nghiệp trên những cánh đồng lúa, rẫy cà phê, cao su...trong những trang trại chăn nuôi: trâu, bò, lợn... Ngoài những vuông tôm, bãi hàu... đã thay thế dần những người nông dân “chân lấm, tay bùn” xưa. Nhưng những giá trị thực tế về kinh nghiệm “Trông trời, trông đất, trông...” Những quy luật của thiên nhiên với sản xuất, các mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, con người với con người ... sẽ là cơ sở để con học sinh tiếp nhận những kiến thức khoa học mới. Các em sẽ giải thích được các mối quan hệ đó, trên cơ sở khoa học để trở thành một con người mới vừa có đức vừa có tài.
PHÒNG GD&ĐT TÂN HIỆP 
TRƯỜNG THCS TÂN HIỆP A5
TÀI LIỆU SINH HOẠT NGOẠI KHÓA
CHỦ ĐIỂM: 
 Ca dao, dân ca Việt Nam
 	Tục ngữ, ca dao là phần phong phú nhất trong văn học dân gian của dân tộc ta. Đây cũng là phần có giá trị nhất về mặt trí tuệ, tình cảm và nghệ thuật biểu hiện. Do đặc điểm nội dung và hình thức ngắn gọn, có vần, dễ nhớ nên nó luôn luôn được nhân dân vận dụng, truyền miệng qua nhiều thế hệ. Chính vì vậy nó luôn được trau chuốt mà vẫn giữ được cái hồn, cái hình mặc dù có thay đổi một vài từ khi đến "cư trú" ở các địa phương khác nhau.
Tục ngữ là lời ăn tiếng nói của nhân dân đã được đúc kết lại dưới những hình thức tinh giản mang nội dung súc tích. Tục ngữ thiên về biểu hiện trí tuệ của nhân dân trong việc nhận thức thế giới, xã hội và con người. Nói như Gorki: "Tục ngữ diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử của nhân dân lao động". (Gorki bàn về văn học, NXB Văn học, H. 1965, tập I, trang 229) Đồng thời tục ngữ cũng biểu hiện thái độ ứng xử và tình cảm của nhân dân đối với những vấn đề của cuộc sống. Tục ngữ thể hiện một phần quan trọng của tư liệu khoa học dân gian và triết lý dân gian. Gắn với lao động, với tự nhiên và những thăng trầm của lịch sử, xã hội, nhân dân đã bộc lộ một cách sâu sắc kinh nghiệm sống, lối sống, 
tư tưởng đạo đức của mình.
 	Trong tục ngữ, qua những nhận xét tinh tế về thời tiết; về những kinh nghiệm sản xuất, chăn nuôi, những phê phán sắc sảo: "Nén bạc đâm tọac tờ giấy", "Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ"; những tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa: "Người là hoa đất"; "Người sống đống vàng"; những đức tính quý báu của nhân dân: "Có công mài sắt có ngày nên kim"; "Đói cho sạch, rách cho thơm"; những chân lý từ ngàn đời: "Năm ngón tay có ngón dài, ngón ngắn"; "Nước chảy đá mòn"; "Tre già măng mọc"... ý nghĩa của tục ngữ trước hết là ở nội dung. Tuy nhiên ý nghĩa của thể loại này còn ở chỗ biểu hiện được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ dân tộc, ở chỗ chứng minh được rằng ngôn ngữ văn học dân gian là mẫu mực về tính chính xác, tính sinh động và tính hình tượng. Qua tục ngữ có thể thấy cách nhân dân phát huy những ưu điểm của tiếng Việt về mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp để biểu hiện tư tưởng của mình. Thông qua việc sáng tác tục ngữ, nhân dân đã rèn đúc, mài giũa ngôn ngữ dân tộc và làm cho nó ngày càng tinh 
xảo, chính xác, trong sáng và phong phú hơn.
 	Mỗi câu tục ngữ đều dùng hình ảnh, sự việc, hiện tượng cụ thể để nói lên ý niệm trừu tượng, dùng cái cá biệt để nói lên cái phổ biến vì vậy ở mỗi câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen (nghĩa hẹp) và nghĩa bóng (nghĩa rộng). Cái cụ thể, cá biệt tạo nên nghĩa đen; cái trừu tượng, phổ biến tạo nên nghĩa bóng. Đặc biệt là ở những câu tục ngữ nói về quan niệm, lối sống và đạo đức của nhân dân: "Môi hở răng lạnh", "Chó cắn áo rách", "Đục nước béo cò", 
"Năng nhặt chặt bị"...
 	Hình ảnh trong tục ngữ là những hình ảnh từ cuộc sống phong phú nhiều màu, nhiều vẻ được nhân cách hóa rất linh hoạt và sinh động: "Đũa mốc chòi mâm son", "Khố son bòn khố nâu"... hầu hết các câu tục ngữ đều có vần, nhiều nhất là vần lưng nên nhịp điệu nhanh, mạnh, vững chắc : "Được làm vua, thua làm giặc", "Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu", "Chê thằng một chai, lấy thằng hai nậm", "Gái một con trông mòn con mắt"... còn những câu không vần thường giữ được tính chất nhịp nhàng theo cách cấu tạo cân đối của các vế: "Già néo đứt dây", "Vỏ quýt dầy có móng tay nhọn". Cũng có những câu không vần, không đối nhưng vẫn giầu chất nhạc, chất hàm súc của thơ: "Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết", "Nằm trong chăn 
mới biết chăn có rận", "Dao sắc không gọt được chuôi"...
 	Nghệ thuật tục ngữ biểu hiện đầy đủ lối suy nghĩ dân gian của dân tộc về giới tự nhiên và đời sống xã hội đồng thời cũng biểu hiện cách nói của dân tộc ta qua nhiều thế hệ, trong tiến trình lịch sử lâu dài. Nếu như tục ngữ thiên về lý trí, đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống thì ca 
dao lại thiên về tình cảm (nội dung trữ tình) và CA DAO là một thể loại đã thể hiện được hết cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ văn học dân gian. Cũng như tục ngữ hoặc bất cứ thể loại văn học nào khác, ý nghĩa chủ yếu có thể thấy ở CA DAO vẫn là về mặt nội dung, có điều là nội dung ấy thường đượm chất thơ. Nếu cho rằng một đặc điểm của thơ là ở chỗ biểu hiện một cách cô đúc nhất tư tưởng và tình cảm thì cũng có thể coi tục ngữ như là một dạng của thơ. Tuy nhiên chất thơ chỉ có thể thấy một cách đầy đủ và toàn diện trong ca dao. sở dĩ như thế một phần cũng chính là vì trong CA DAO không những hiện thực được phản ánh một cách cô đúc hơn là trong ngôn ngữ hàng ngày, hơn cả trong văn xuôi mà còn là vì trong CA DAO tư tưởng và tình cảm được chắp đôi cánh kỳ diệu của sự tưởng tượng, điều này ít thấy có ở trong tục ngữ.
 Ăn vóc, học hay
Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành.
Ăn nhạt mới biết thương mèo.
Ăn có nhai, nói có nghĩ.
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
Én bay thấp mưa ngập cầu ao.
Én bay cao mưa rào lại tạnh
Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên.
Ếch tháng ba, gà tháng bảy.
Ếch no khó nhử mồi.
Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung. .
Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước
Hết xôi rồi việc –
Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi
Hiền trước mặt, làm giặc sau lưng
Họ nhà khoai, không ngứa cũng lăn tăn
Há miệng mắc quai.
Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.
Hơi đâu mà giận người dưng.
Bán anh em xa mua láng giềng gần.
Bên tình bên hiếu biết theo bên nào.
Buôn thần bán thánh.
Bán phấn buôn hương.
Cơm không lành, canh không ngọt.
Cá ăn kiến, kiến ăn cá.
Cá lớn nuốt cá bé.
Cây ngay không sợ chết đứng.
Chết đứng còn hơn sống quỳ.
Chết vinh còn hơn sống nhục.
Có làm thì mới có ăn.
Cày sâu, cuốc bẫm.
Chạy trời không khỏi nắng
Chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng
Chiếc áo không làm nên thầy tu
Đi một ngày đàng học một sàng khôn
Đói cho sạch, rách cho thơm.
Đời cha ăn mặn, đời con khát nước .
Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ
Đi đâu mà vội mà vàng,
Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Đêm dài lắm mộng
Đèn nhà ai nhà nấy rạng
Học thầy không tày học bạn.
Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh.
Giận quá mất khôn.
Giận cá chém thớt.
Gan vàng dạ sắt.
Giỏ nhà ai quai nhà nấy
Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.
Kẻ cắp gặp bà già
Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm
Khi yêu trái ấu cũng tròn, khi ghét bồ hòn cũng méo
Khôn chết, dại chết, giả chết không chết
Khôn nhà, dại chợ
Khôn ba năm dại một giờ
Khôn đâu tới trẻ, khỏe đâu tới già
Khôn không qua lẽ, khỏe chẳng qua lời
Không có lửa làm sao có khói
Không thầy đố mày làm nên
Kiến tha lâu cũng đầy tổ
Oan có đầu, nợ có chủ
Oán không giải được oán
Oán thù nên giải, không nên kết
Ông ăn chả, bà ăn nem.
Ông có chân giò, bà thò nậm rượu
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
Ở hiền gặp lành, ở dữ gặp ác
Ở nhà nghe Đông Hà lúa chín
Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm
Việc người thì chán, việc mình thì sói
Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng
Phép nước lệ làng.
Phép vua thua lệ làng.
Phòng bệnh hơn chữa bệnh.
Quỷ tha, ma bắt
Quả báo, nhãn tiền
Quan nhất thời, dân vạn đại
Quýt làm cam chịu
Qua cầu rút ván
Rau nào sâu nấy

Tài liệu đính kèm:

  • doctai_lieu_sinh_hoat_ngoai_khoa_chu_diem_dia_ly_trong_ca_dao_d.doc