I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta biết, đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hóa được đặt ra do yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhân lực cho đất nước trong giai đoạn những năm đầu thế kỉ 21. Cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn cũng như các môn học khác ở nhà trường phổ thông hiện nay là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và hoạt động dạy học của giáo viên. Với định hướng này, lối dạy học truyền thụ một chiều chủ yếu là bắt HS ghi nhớ kiến thức để ứng thí đã không còn phù hợp. Học sinh chủ động trong tiếp nhận và giải quyết các vấn đề kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Phương pháp dạy học mới đã phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác cho học sinh, giúp các em có niềm vui, hứng thú trong học tập. Trong quá trình dạy - học, giáo viên đã vận dụng một cách linh hoạt và đa dạng các hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, hình thức đánh giá làm cho việc học trở nên sinh động, lí thú, tránh nhàm chán, đơn điệu, có thể khắc phục điểm yếu, phát huy điểm mạnh của những đối tượng học sinh khác nhau; làm cho việc học gắn bó hơn với môi trường thực tế, gắn với kinh nghiệm sống của cá nhân học sinh, tạo điều kiện cho các em có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống.
Từ định hướng đổi mới PPDH trên, chúng ta thấy để đổi mới thành công PPDH cần phải đổi mới một cách toàn diện, đồng bộ các thành tố, các bộ phận cấu thành quá trình dạy học bởi chúng có sự tác động qua lại. Sự đổi mới cần bắt đầu ở việc lập kế hoạch thiết kế và triển khai kế hoạch bài học (giáo án) ở trên lớp đến vận dụng linh hoạt, sáng tạo các PPDH, đa dạng hóa các phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cuối cùng là kiểm tra đánh giá. Như vậy, KTĐG là một khâu quan trọng, không thể thiếu của quá trình dạy học. Chính vì thế, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương đổi mới nội dung, phương pháp dạy học “phải gắn liền với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá”, xem kiểm tra đánh giá là đòn bẩy thúc đẩy đổi mới PPDH.
THAM LUẬN VỀ ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ NHẰM THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN THCS I.ĐẶT VẤN ĐỀ Như chúng ta biết, đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hóa được đặt ra do yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhân lực cho đất nước trong giai đoạn những năm đầu thế kỉ 21. Cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn cũng như các môn học khác ở nhà trường phổ thông hiện nay là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và hoạt động dạy học của giáo viên. Với định hướng này, lối dạy học truyền thụ một chiều chủ yếu là bắt HS ghi nhớ kiến thức để ứng thí đã không còn phù hợp. Học sinh chủ động trong tiếp nhận và giải quyết các vấn đề kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Phương pháp dạy học mới đã phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác cho học sinh, giúp các em có niềm vui, hứng thú trong học tập. Trong quá trình dạy - học, giáo viên đã vận dụng một cách linh hoạt và đa dạng các hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, hình thức đánh giá làm cho việc học trở nên sinh động, lí thú, tránh nhàm chán, đơn điệu, có thể khắc phục điểm yếu, phát huy điểm mạnh của những đối tượng học sinh khác nhau; làm cho việc học gắn bó hơn với môi trường thực tế, gắn với kinh nghiệm sống của cá nhân học sinh, tạo điều kiện cho các em có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống. Từ định hướng đổi mới PPDH trên, chúng ta thấy để đổi mới thành công PPDH cần phải đổi mới một cách toàn diện, đồng bộ các thành tố, các bộ phận cấu thành quá trình dạy học bởi chúng có sự tác động qua lại. Sự đổi mới cần bắt đầu ở việc lập kế hoạch thiết kế và triển khai kế hoạch bài học (giáo án) ở trên lớp đến vận dụng linh hoạt, sáng tạo các PPDH, đa dạng hóa các phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cuối cùng là kiểm tra đánh giá. Như vậy, KTĐG là một khâu quan trọng, không thể thiếu của quá trình dạy học. Chính vì thế, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương đổi mới nội dung, phương pháp dạy học “phải gắn liền với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá”, xem kiểm tra đánh giá là đòn bẩy thúc đẩy đổi mới PPDH.. II. NỘI DUNG 1.Thực trạng việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn ở trường THCS Chúng ta biết rằng, đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của HS, về tác động và nguyên nhân của tình hình đó, nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của GV và nhà trường, cho bản thân HS để các em học tập ngày một tốt hơn. Như vậy thực chất của đánh giá là hoạt động xem xét, so sánh mức độ đạt được của mỗi HS theo yêu cầu môn học đề ra; tìm ra những nguyên nhân của những mức độ thành tích đã đạt được của các em để phát huy. Một vấn đề quan trọng nữa trong đánh giá là phải dự đoán được những năng lực phát triển có thể còn tiềm ẩn ở mỗi HS. Trong nhà trường THCS hiện nay, HS không thích học các bộ môn khoa học xã hội mà nhất là Lịch sử và Ngữ văn. Một mặt do tâm lí chọn ngành nghề của HS và phụ huynh. Mặt khác, môn Ngữ văn đòi hỏi HS phải có năng lực cảm thụ văn chương, năng khiếu nói , viết và vốn sống thực tế phong phú nên không chỉ chăm, không chỉ thích là được. Việc vận dụng PPDH mới hiện nay của một số giáo viên còn chưa được thường xuyên, còn máy móc, còn lúng túng, thiếu linh hoạt. Thậm chí có một số giáo viên vẫn tiến hành giờ dạy như một giờ diễn thuyết, hoặc đọc cho HS chép những ý cơ bản đã ghi trong giáo án nên chưa gây được hứng thú học tập cho các em. Hơn nữa môn Ngữ văn là môn học có số lần kiểm tra khá cao nên tâm lí các em rất ngại học, ngại thi. Ngoài kiểm tra miệng, hình thức kiểm tra thông dụng nhất hiện nay vẫn là tự luận. Cách kiểm tra này có ưu điểm là đánh giá được khả năng diễn đạt của HS. Tuy nhiên, hình thức đánh giá này không tránh khỏi những hạn chế. Thứ nhất, các dạng bài kiểm tra đơn điệu nên không đánh giá được nhiều mảng kiến thức, kĩ năng và năng lực thực hành vận dụng những yêu cầu nghe, nói, đọc, viết của HS. Thứ hai, nội dung và cách thức kiểm tra còn mang tính khuôn mẫu, thường chỉ tập trung vào một dung lượng kiến thức và kĩ năng nhất định nên chưa phát huy được tính chủ động sáng tạo của HS, dễ nảy sinh thói quen học vẹt, học tủ. Thứ ba, việc chấm bài có lúc còn mang tính chủ quan của GV vì vậy kết quả bài làm có khi không phản ánh được chính xác năng lực, trình độ học tập của HS. Và cuối cùng với tâm lí “học gì thi nấy” khiến giáo viên và HS dễ bỏ qua những kiến thức kĩ năng được dự đoán là đề thi sẽ không đề cập tới. Khi trả bài, HS thường chỉ chú ý đến điểm số mà thiếu quan tâm đến những lời nhận xét cụ thể của GV trong bài kiểm tra. Chính điều này ảnh hưởng nhiều đến việc tiếp nhận kiến thức của HS. Từ thực trạng trên, chúng tôi nhận thấy rằng việc đổi mới cách KTĐG kết quả học tập bộ môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo là rất cần thiết. 2.Kinh nghiệm thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn ở trường THCS Cảnh Dương. Sau 7 năm thay đổi chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy và đổi mới cách kiểm tra, đánh giá nhìn chung đã khắc phục được rất nhiều thực trạng nêu trên. Chúng tôi cũng đã tích lũy được cho mình một số kinh nghiệm trong việc thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá. Nằm trong vấn đề đổi mới kiểm tra, đánh giá các môn học ở THCS nói chung, đổi mới KTĐG môn Ngữ văn trước hết biểu hiện ở đổi mới các hình thức kiểm tra đánh giá, đổi mới cách ra đề kiểm tra, tiếp theo là đổi mới việc chấm bài và cuối cùng là đổi mới tiết trả bài kiểm tra Tiếng Việt, Văn và Tập làm văn. a. Đổi mới các hình thức kiểm tra, đánh giá. Chúng ta biết rằng việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh được tiến hành thường xuyên trong quá trình dạy học với nhiều hình thức khác nhau: viết, thực hành, vấn đáp hoặc kết hợp viết, thực hành và vấn đáp. Trước đây, người thầy độc quyền trong việc kiểm tra, đánh giá HS, còn bây giờ, các em sẽ cùng tham gia vào quá trình đánh giá, tự đánh giá bản thân và đánh giá các bạn trong lớp. Với hình thức kiểm tra vấn đáp (miệng), ngoài việc đảm bảo các yêu cầu chung của kiểm tra đánh giá, người thầy cần phải làm thế nào thu hút sự chú ý, kích thích sự tham gia tích cực của HS trên cơ sở đó mà thu thập kịp thời những thông tin phản hồi về bài giảng, về cách truyền đạt, về nội dung kiến thức đã cung cấp nhằm kịp thời điều chỉnh cho phù hợp, sát với từng đối tượng học sinh. Khi kiểm tra bài cũ hầu hết GV đều dùng hình thức kiểm tra chất vấn (GV đặt câu hỏi, HS trả lời miệng). Làm như vậy chỉ có thể kiểm tra rất ít HS, kiến thức cần kiểm tra hẹp, không rèn được các kĩ năng làm bài kiểm tra kiểu trắc nghiệm, thời gian kiểm tra nhiều (do phụ thuộc nhiều vào HS: chậm chạp, học bài chưa tốt, chưa thuộc, không học bài). Đặc biệt GV dễ nổi cáu khi HS không học thuộc bài và như thế sẽ ảnh hưởng đến việc dạy bài mới. Muốn vậy phải thay đổi hình thức kiểm tra bài cũ. Cụ thể, thứ nhất, chúng tôi không nhất thiết phải tiến hành kiểm tra ngay từ đầu tiết học mà có thể kiểm tra giữa hoặc cuối tiết học. Làm như thế sẽ tránh được sự căng thẳng cho HS khi vừa vào học. Nếu kiểm tra đầu tiết học chúng tôi thực hiện theo hai cách. Một là GV nêu câu hỏi, HS trả lời. Hai là, cuối tiết học của bài trước, giáo viên yêu cầu học sinh tự đặt ra câu hỏi kiểm tra bài cũ cho tiết học sau, có đáp án (tất nhiên là phải cùng phân môn) với yêu cầu phải xác định được kiến thức trọng tâm của bài học). Tiết sau giáo viên gọi một em bất kì lên nêu câu hỏi, một em khác trả lời và em nêu câu hỏi sẽ phải nhận xét câu trả lời của bạn, nếu thiếu thì bổ sung. Sau đó giáo viên chốt kiến thức và cho điểm. Như vậy, HS đã có thể nắm chắc bài học trước, biết được đâu là kiến thức trọng tâm và cũng đồng thời tự kiểm tra đánh giá mình và bạn. Thứ hai, chúng tôi ra bài tập trắc nghiệm cho cả lớp làm (4 phút) sau đó GV thu 4-5 em (không báo trước). Các em còn lại đổi chéo chấm cho nhau (1 phút). Thời gian này GV chấm bài 4-5 em đã thu và nhận xét, công bố điểm. Làm như vậy cũng sẽ tạo điều kiện cho HS tham gia vào việc đánh giá và tự đánh giá việc học tập của mình, khắc phục tình trạng học vẹt, học đối phó. Ngoài ra, chúng tôi còn thực hiện kiểm tra, đánh giá thông qua các hoạt động ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp như tổ chức các hội vui học tập, các cuộc thi kể chuyện, tập làm thơ, làm báo tườngTất cả các hoạt động đó đã phát huy được tính tích cực của việc kiểm tra đánh giá HS, gây hứng thú thực sự cho HS. b. Đổi mới cách ra đề. *Khi ra đề chúng tôi luôn căn cứ vào đặc trưng bộ môn, vào chuẩn kiến thức kĩ năng và mục tiêu môn học. Đây là những căn cứ cơ bản để người thầy xây dựng hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá cho phù hợp đối tượng học sinh và lựa chọn PPDH thích hợp giúp HS tham gia vào hoạt động học một cách tích cực. *Đề thi (kiểm tra) phải đảm bảo cấu trúc chung : đề gồm 2 phần: trắc nghiệm khách quan và tự luận (kể cả đề kiểm tra 15 phút) theo tỉ lệ 3/7 hoặc 4/6. Các câu hỏi trắc nghiệm tập trung kiểm tra kiến thức và kĩ năng của cả ba đơn vị Tiếng Việt, Làm văn và Đọc-hiểu văn bản. Phần tự luận kiểm tra năng lực viết, cảm thụ, phân tích văn học và kĩ năng diễn đạt của học sinh. Cấu trúc đề thi(1h) thường theo một trong 2 hướng sau: Hướng 1: - Phần TN có 6 câu , chiếm 3 điểm (mỗi câu 0,5 điểm) - Phần TL có 1 câu (hoặc nhiều hơn), chiếm 7 điểm. Hướng 2: - Phần TN có 12 câu, chiếm 3 điểm (mỗi câu 0,25 điểm). - Phần TL có một câu (hoặc nhiều hơn), chiếm 7 điểm. Bộ GD-ĐT khuyến khích ra đề theo hướng này, nhưng từ thực tế kiểm tra, đánh giá chúng tôi thấy hướng thứ nhất là phù hợp hơn. Bởi vì nếu ra 12 câu trắc nghiệm thì có nhiều em loay hoay làm trắc nghiệm mà bỏ hoặc làm không hết phần tự luận. * Phần tự luận: TL là loại đề thường được sử dụng trong môn Ngữ văn, HS làm bài bằng cách suy nghĩ và diễn đạt qua ngôn ngữ viết. Đề TL đánh giá được khả năng diễn đạt, tư duy sáng tạo, cách cảm nhận độc đáo của HS nên TL luôn luôn là phần không thể thiếu trong đề thi Ngữ văn. Khi ra đề TL chúng tôi chú ý đến những định hướng sau đây: + Chú ý tính toàn diện. Để đảm bảo tính toàn diện, phần tự luận có hai hoặc ba câu để kiểm tra hai hoặc ba vấn đề nào đó. Trong các câu này có cả nghị luận văn học lẫn nghị luận xã hội bởi nghị luận xã hội là một hình thức để rèn luyện tốt nhất khả năng độc lập suy nghĩ của HS và các em có thể trực tiếp bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình trước một vấn đề của xã hội, cuộc sống, chống sao chép và học thuộc văn mẫu; đề tự luận có cả Tiếng Việt và Đọc - hiểu văn bản. Ở đây, phạm vi kiến thức nào được xem là phân môn đó. Ví dụ: Viết đoạn văn giới thiệu về một tác giả hoặc một tác phẩm nào đó là kiến thức phân môn Văn; Viết đoạn văn có sử dụng phương tiện liên kết hoặc có các từ loại hoặc có các kiểu câulà kiến thức của phân môn Tiếng Việt. + Khuyến khích ra các dạng đề mở kết hợp với đề văn truyền thống. Các đề tự luận truyền thống có những ưu thế vẫn được khẳng định tuy nhiên đã có những gợi mở trong việc xây dựng đề nhằm phát huy sức tưởng tượng và sáng tạo của HS. Theo định hướng này, câu hỏi đề tự luận, chúng tôi giảm các câu hỏi, đề mang tính áp đặt, mệnh lệnh, chỉ một cách giải quyết đúng ; tăng các câu hỏi đề mở để học sinh có thêm khả năng thực hiện, phát huy tính sáng tạo riêng, gây được hứng thú cho HS khá, giỏi. Ví dụ: thay vì các mệnh lệnh khô khan, độc đoán: hãy kể, hãy tả, hãy chứng minh, giải thích, hãy viếtbằng: Em (bạn) làm rõ, kể lại, giúp bạn hình dung, bàn luận về Bên cạnh đó để khắc phục khuynh hướng ra đề quá thiên về nghị luận văn học chúng tôi gia tăng các dạng đề văn gắn với các đề tài gần gũi, ích dụng với thực tiễn đời sống và HS có thể sử dụng các phương thức biểu đạt khác nhau trong bài làm của mình như: Người thân trong mắt em (Ngữ văn 6); Loài vật, loài hoa, loài cây em yêu; Cảm nghĩ về người thân (Ngữ văn 7);Tôi thấy mình đã khôn lớn;Kí ức tuổi thơ: Hút thuốc có hại (Ngữ văn 8); Những con người trong Lặng lẽ Sa-pa của Nguyễn Thành Long; Về thời khắc chuyển mùa/ Về một bài thơ hoặc nhà thơ mà em yêu thích nhất; Về bài thơ (truyện ngắn, bức tranh, pho tượng, bản nhạc) đầu tiên ám ảnh tâm trí em đến tận bây giờ (Ngữ văn 9); *Phần trắc nghiệm: Đánh giá bằng TNKQ có ưu thế đối với việc nâng cao tính chính xác, tính khách quan trong đánh giá KQHT môn Ngữ văn nhất là ở các mạch kiến thức Tiếng Việt, Văn học, Làm văn với 3 mức độ: nhớ và tái hiện, thông hiểu, vận dụng tái tạo và sáng tạo. Phần câu hỏi TN chúng tôi xây dựng theo 2 cách: hoặc cùng dựa trên một đoạn văn bản (ngữ liệu) để hỏi theo hướng tích hợp, hoặc có thể hỏi độc lập thành các câu khác nhau. Câu hỏi TN chúng tôi thường ra dưới nhiều dạng : trắc nghiệm đúng sai, trắc nghiệm đối chiếu cặp đôi, trắc nghiệm điền khuyết, trắc nghiệm nhiều lựa chọn (lựa chọn tuyệt đối), trắc nghiệm nối cột với nhiều mức độ dễ, vừa, khó nhằm phân hóa đối tượng học sinh. Tuy nhiên không có dạng trắc nghiệm nào được xem là độc tôn. Kiểm tra theo lối trắc nghiệm là một lĩnh vực khoa học phức tạp. Do đó, ra đề trắc nghiệm không đơn giản như nhiều người lầm tưởng. Để đáp ứng các yêu cầu của một đề thi TN đòi hỏi người ra đề phải có kiến thức, có kinh nghiệm và đặc biệt phải có đầu tư về thời gian. Nếu không được huấn luyện về kĩ thuật người ra đề rất dễ mắc những sai sót đáng tiếc như: câu hỏi quá dễ, câu hỏi làm lộ câu trả lời, ý hỏi không tường minh, các lựa chọn không tương đương, không bình đẳng, độ nhiễu chưa cao *Biên soạn đề kiểm tra chúng tôi tuân theo quy trình: - Xây dựng kế hoạch kiểm tra và ra đề kiểm tra: Xác định mục đích, yêu cầu kiểm tra, đánh giá; Xác định mục tiêu cần KTĐG. - Xây dựng các tiêu chí kĩ thuật ra đề kiểm tra (thiết lập ma trận hai chiều cho đề kiểm tra). Theo chúng tôi, việc thiết lập bảng đặc trưng hai chiều (ma trận) cho một bài kiểm tra là rất cần thiết, bởi nó đã đưa ra một cấu trúc hợp lí, cân đối nhằm xác định được đầy đủ các nội dung cần kiểm tra của mỗi chương, phần hay toàn bộ nội dung cần đạt của môn học. Nhìn trên ma trận có thể xem xét được đề KT ra có toàn diện và tổng hợp được những phạm vi kiến thức, kĩ năng cần đánh giá hay không, có quan tâm đến sự phân hóa năng lực học sinh không; Thể hiện được số lượng những câu hỏi đảm bảo cân đối về thời lượng cũng như mức độ quan trọng của từng nội dung đã học. Câu hỏi nào khó hơn thì có thể dành thời lượng và điểm số cao hơn; Thể hiện được cụ thể các yêu cầu về mức độ nhận thức của mỗi nội dung cần KT. Mức độ nhận thức trung bình có trọng số điểm không ít hơn các mức độ nhận thức khác. Dựa trên một ma trận GV có thể ra nhiều đề khác nhau mà vẫn đảm bảo độ đồng đều về kiến thức, không có đề dễ, đề khó. Kinh nghiệm khi thiết kế đề kiểm tra đánh giá KQHT môn Ngữ văn của chúng tôi với số điểm dành cho các mức độ thường là: Nhận biết khoảng 25 %; Thông hiểu khoảng 40 % và Vận dụng (thấp, cao) khoảng 35 %. Sau đó chúng tôi tiến hành thiết kế câu hỏi theo ma trận: Căn cứ vào số lượng và mức độ đã xác định ở ma trận để thiết kế câu hỏi. Các câu hỏi phải tương ứng với mức độ nhận thức cần kiểm tra đã được xác định. * Tăng cường tính đa dạng và sáng tạo của đề bài. Điều này thể hiện ở chỗ kết hợp với tỉ lệ hợp lí tùy theo từng yêu cầu cụ thể của bài học, bài ôn và thời gian kiểm tra, giữa các câu hỏi trắc nghiệm và tự luận. * Đảm bảo tính khoa học, sư phạm của đề bài: giảm đến mức tối thiểu những sai sót đáng tiếc, các lỗi dùng từ, chính tả, đặt câu... c. Đổi mới đáp án và biểu điểm Đề mới dẫn đến đáp án và biểu điểm cũng phải mới. Đáp án và biểu điểm mới không chỉ thể hiện ở nội dung chuẩn xác, tỉ lệ điểm hợp lí giúp GV khi chấm dễ theo dõi đối chiếu mà đáp án cũng phải mang tính mở. Nghĩa là chúng tôi dự kiến các khả năng, phương án mà học sinh có thể lựa chọn, nhất là đáp án cho những đề mở, tự do (đề tự luận và đề Tập làm văn). Đáp án và biểu điểm cho bài kiểm tra 15 phút, 1h: Điểm tối đa cho toàn bài là 10. Sự phân bố điểm cho từng phần (TNKQ, TL) tuân theo hai nguyên tắc: + Tỉ lệ thuận với thời gian dự định HS hoàn thành từng phần (được xây dựng khi thiết kế ma trận). + Mỗi câu TNKQ nếu trả lời đúng đều có số điểm như nhau. Đối với bài viết Tập làm văn, theo chúng tôi, không nên viết đáp án quá chi tiết, biểu điểm quá chi li, hạn chế khả năng bao quát của GV nhưng cũng càng không nên chuẩn bị đáp án quá sơ sài, khoảng cách điểm quá rộng (chênh nhau 1-2 điểm) lại gây khó khăn và thiếu chuẩn xác cho người chấm. Đặc biệt, chúng tôi luôn khắc phục lối chấm bài chay, không có đáp án, hoàn toàn dựa vào chủ quan, cảm hứng của GV. d. Đổi mới việc chấm bài và trả bài Khi chấm bài chúng tôi luôn chú ý đảm bảo tính chính xác, công bằng, khách quan. Khi trả bài thì công khai nhận xét kết quả bài làm, cho phép học sinh phản hồi, trao đổi lại cùng giáo viên (kết hợp việc đánh giá của giáo viên với việc tự đánh giá của học sinh). Nhất thiết phải đánh dấu vào những chỗ sai sót trong bài viết của học sinh ở phần tự luận và bài Tập làm văn. Có thể chữa một số lỗi làm ví dụ nhưng cố gắng không để sót lỗi. Mặt khác, chúng tôi đánh dấu và ngợi khen ngắn gọn ngay bên lề những câu, những đoạn viết tốt, hay, có sáng tạo. Cho điểm từng phần, từng ý, cộng điểm chính xác. Đối với những bài Tập làm văn, chúng tôi nhận xét bài viết của các em rất ngắn gọn, cụ thể, nêu rõ cả ưu và nhược điểm, cả nội dung và hình thức diễn đạt, trân trọng đúng mức những thành công, tiến bộ dù rất nhỏ của các em. Không viết những lời phê chung chung hoặc mang nặng tình cảm, cảm xúc cá nhân chủ quan. Lời nhận xét luôn phù hợp với điểm số được ghi. Theo chúng tôi, đổi mới tiết trả bài trước hết là đổi mới cách làm việc tắc trách, qua loa, đại khái bởi quan niệm trả bài là trả bài và ghi điểm vào sổ, và chỉ cần thế mà thôi! Chúng tôi luôn đầu tư thích đáng cho tiết này: chấm bài, ghi chép tư liệu kĩ càng để có chất liệu phong phú tiến hành tiết trả bài hiệu quả. Thông qua tiết trả bài, giúp HS nhận rõ kết quả, thấy được những mặt mạnh, yếu trong bài viết của mình đã được thầy cô trân trọng và đánh giá công bằng, khoa học và các em sẽ cảm thấy hứng thú, tự hào trước kết quả lao động sáng tạo của bản thân để tiếp tục sửa chữa, hoàn thiện bài viết của mình, để viết tốt hơn các bài sau và tham gia tích cực hơn vào hoạt động học. Dựa trên kết quả học tập của học sinh đã được giáo viên đánh giá và chính học sinh tự đánh giá, giáo viên điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. 3.Kiến nghị và đề xuất Từ thực tế giảng dạy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn ở THCS theo định hướng đổi mới, chúng tôi nhận thấy có nhiều ưu điểm song không phải là không có những hạn chế. Do lớp học quá đông nên khi kiểm tra trắc nghiệm khách quan các em có thể nhìn bài nhau để làm mặc dù chúng tôi đã ra đề chẵn, lẻ. Để việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của các em đảm bảo tính khách quan, công bằng, chính xác thì chúng tôi có một vài kiến nghị, đề xuất như sau: - Với nhà trường cần tạo thêm điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học để việc thực hiện đổi mới PPDH có hiệu quả hơn. - Với các cấp quản lí giáo dục cấp trên: + Hiện nay, tư liệu, tranh ảnh, đồ dùng trực quan cho dạy - học Ngữ văn còn quá ít nếu được bổ sung thêm thì sẽ tăng tính hiệu quả của việc truyền đạt tri thức. + Bộ môn Ngữ văn ngoài yêu cầu HS nắm kiến thức như các môn học khác đòi hỏi phải có năng khiếu và sự am hiểu thực tế mà HS THCS thì vốn sống còn quá ít. Đồng thời, người GV lại đang đứng trước muôn vàn sức ép vô hình, cộng với các văn bản quy định về “học gì thi nấy” khiến họ buộc phải lựa chọn cách “an toàn” trong khi có thể đưa ra đề kiểm tra để HS không học tủ, học vẹt mà phát huy được tư duy sáng tạo. Vì vậy mong các cấp cần có cơ chế thoáng mở và sự ủng hộ của toàn xã hội. III. KẾT LUẬN. Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn thật sự là một biện pháp kích thích hứng thú học tập của học sinh bởi để làm tốt bài kiểm tra nhất là các câu hỏi kiểm tra trắc nghiệm HS phải có kiến thức và hiểu biết rộng nội dung chương trình, nắm vững các kĩ năng khi tham gia giải các bài tập. Kết quả kiểm tra, đánh giá HS trung thực, khách quan, đạt điểm tốt là yếu tố khích lệ tinh thần học tập của các em. Làm tốt việc kiểm tra, đánh giá cũng có nghĩa là chúng ta đã và đang thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THCS. Và chính chúng ta chứ không phải ai khác nhất định cần và phải trau dồi cho bản thân các kĩ năng kiểm tra, đánh giá một cách chính xác, khoa học, công bằng. Tất cả những điều trình bày ở trên chỉ là một số kinh nghiệm nhỏ về đổi mới cách kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn mà chúng tôi đã tích lũy được trong những năm qua. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Cảnh Dương ngày 23 tháng 2 năm 2009 Người viết tham luận Nguyễn Thị Ái Vân
Tài liệu đính kèm: