Tuyển tập Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng

Tuyển tập Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng

Bài học tuổi thơ

Thằng con tôi 11 tuổi, học lớp sáu. Qua mùa thi chuyển cấp, nhân một buổi chiều cho con đi chơi mát, nó kể. Đang hỏi nó về chuyện thi cử, nó chợt hỏi lại tôi:

- Ba! Có bao giờ thấy có một bài luận văn nào điểm không không ba? Con số không cô cho bự bằng quả trứng gà. Không phải cho bên lề, mà một vòng tròn giữa trang giấy. Thiệt đó ba. Chuyện ngay trong lớp của con, chứ không phải con nghe kể đâu.

Tôi chưa kịp hỏi, nó tiếp:

- Còn thua ba nữa đó, ba. Iít nhứt ba cũng được nửa điểm. Còn thằng bạn của con, con số không bự như quả trứng.

Thằng con tôi ngửa mặt cười, có lẽ nó thấy thú vị vì thời học trò của ba nó ít nhứt cũng hơn được một đứa.

Số là cách đây vài năm, có một nhà xuất bản gởi đến các nhà văn nhà thơ quen biết trong cả nước một câu hỏi, tôi còn nhớ đại ý, nhà văn nhà thơ thời thơ ấu học văn như thế nào, nhà xuất bản in thành sách "Nhà văn học văn". Đọc qua, nghe các nhà văn nhà thơ kể, tất nhiên là mỗi người có mỗi cuộc đời, mỗi người mỗi giọng văn, nhìn chung thì người nào, lúc còn đi học, cũng có khiếu văn, giỏi văn. Nếu không thì lấy gì làm cơ sở để sau này trở thành nhà văn? Rất lô-gích và rất là tự nhiên vậy. Duy chỉ có bài của tôi hơi khác, có gì như ngược lại. Tôi kể, hồi tôi học ở trường trung học Nguyễn Văn Tố (1948 - 1950), tôi là một học sinh trung bình, về môn văn không đến nỗi liệt vào loại kém, nhưng không có gì tỏ ra là người có khiếu văn chương. Và có một lần, bài luận văn của tôi chỉ được có một điểm trên hai mươi (1/20). Đó là kỷ niệm không quên trong đời học sinh của tôi, môn văn.

 

doc 104 trang Người đăng duyphuonghn Lượt xem 1527Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tuyển tập Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC
Tác giả: Nguyễn Quang Sáng
Bài học tuổi thơ
Chiếc lược ngà
Chị Nhung
Con chim vàng
Con khướu sổ lồng
Con ma da
Con mèo của Foujita
Dân chơi
Đạo tưởng
Gà sanh đôi
Một chuyện vui
Người bạn lính
Người đàn bà đức hạnh
Quán rượu người câm
Vẽ lại bức tranh xưa
Vểnh râu
Bài học tuổi thơ
Thằng con tôi 11 tuổi, học lớp sáu. Qua mùa thi chuyển cấp, nhân một buổi chiều cho con đi chơi mát, nó kể... Đang hỏi nó về chuyện thi cử, nó chợt hỏi lại tôi:
- Ba! Có bao giờ thấy có một bài luận văn nào điểm không không ba? Con số không cô cho bự bằng quả trứng gà. Không phải cho bên lề, mà một vòng tròn giữa trang giấy. Thiệt đó ba. Chuyện ngay trong lớp của con, chứ không phải con nghe kể đâu.
Tôi chưa kịp hỏi, nó tiếp:
- Còn thua ba nữa đó, ba. Iít nhứt ba cũng được nửa điểm. Còn thằng bạn của con, con số không bự như quả trứng.
Thằng con tôi ngửa mặt cười, có lẽ nó thấy thú vị vì thời học trò của ba nó ít nhứt cũng hơn được một đứa.
Số là cách đây vài năm, có một nhà xuất bản gởi đến các nhà văn nhà thơ quen biết trong cả nước một câu hỏi, tôi còn nhớ đại ý, nhà văn nhà thơ thời thơ ấu học văn như thế nào, nhà xuất bản in thành sách "Nhà văn học văn". Đọc qua, nghe các nhà văn nhà thơ kể, tất nhiên là mỗi người có mỗi cuộc đời, mỗi người mỗi giọng văn, nhìn chung thì người nào, lúc còn đi học, cũng có khiếu văn, giỏi văn. Nếu không thì lấy gì làm cơ sở để sau này trở thành nhà văn? Rất lô-gích và rất là tự nhiên vậy. Duy chỉ có bài của tôi hơi khác, có gì như ngược lại. Tôi kể, hồi tôi học ở trường trung học Nguyễn Văn Tố (1948 - 1950), tôi là một học sinh trung bình, về môn văn không đến nỗi liệt vào loại kém, nhưng không có gì tỏ ra là người có khiếu văn chương. Và có một lần, bài luận văn của tôi chỉ được có một điểm trên hai mươi (1/20). Đó là kỷ niệm không quên trong đời học sinh của tôi, môn văn.
Khi con tôi đọc bài văn đó, con tôi hỏi:
- Sao bây giờ ba là nhà văn? Và bạn bè cũng hỏi như vậy. Tôi cũng đã tự lý giải về mình, và lời giải cũng đã in vào sách rồi, xin không nhắc lại.
Tôi hỏi con tôi:
- Luận văn cô cho khó lắm hay sao mà bạn con bị không điểm.
- Luận văn cô cho "Trò hãy tả buổi làm việc ban đêm của bố".
- Con được mấy điểm?
- Con được sáu điểm.
- Con tả ba như thế nào?
- Thì ba làm việc làm sao thì con tả vậy.
- Mấy đứa khác, bạn của con?
Thằng con tôi như chợt nhớ, nó liến thoắng:
- A! Có một thằng ba nó không hề làm việc ban đêm mà nó cũng được sáu điểm đó ba.
- Đêm ba nó làm gì?
- Nó nói, đêm ba nó toàn đi nhậu.
- Nó tả ba nó đi nhậu à?
- Dạ không phải. Ba nó làm việc ban ngày nhưng khi nó tả thì nó tả ba nó làm việc ban đêm, ba hiểu chưa?
- Còn thằng bạn bị không điểm, nó tả như thế nào?
- Nó không tả không viết gì hết, nó nộp giấy trắng cho cô.
- Sao vậy?
Hôm trả lại bài cho lớp, cô gọi nó lên, cô giận lắm, ba. Cô hét: "Sao trò không làm bài". Nó cúi đầu làm thinh. Cô lại hét to hơn: "Hả?". Nó cũng làm thinh. Tụi con ngồi dưới, đứa nào cũng run.
- Nó là học trò loại " cá biệt" à?
- Không phải đâu ba, học trò tiên tiến đó ba.
- Sao nữa? Nó trả lời cô giáo như thế nào?
Nó cứ làm thinh. Tức quá, cô mới quất cây thước xuống bàn cái chát: "Sao trò không làm bài?" Tới lúc đó nó mới nói: "Thưa cô, con không có ba". Nghe nó nói, hai con mắt của cô con mở tròn như hai cái tô. Cô đứng sững như trời trồng vậy ba!
Tôi bỗng nhập vai là cô giáo. Tôi thấy mình ngã qụy xuống trước đứa học trò không có ba.
Sau đó cô và cả lớp mới được biết, em mồ côi cha khi vừa mới lọt lòng mẹ. Ba em hy sinh trên chiến trường biên giới. Từ ấy, má em ở vậy, tần tảo nuôi con...
Có người hỏi em: "Sao mày không tả ba của đứa khác". Em không đáp, cúi đầu, hai giọt nước mắt chảy dài xuống đôi má.
Chuyện của đứa học trò bị bài văn không điểm đã để lại trong tôi một nỗi đau. Em bị không điểm, nhưng với tôi, người viết văn là một bài học, bài học trung thực. Sáng tạo không đồng nghĩa với bịa đặt.
Giữa những dòng chữ bịa đặt và trang giấy trắng, tôi xin để trang giấy trắng trung thực trên bàn viết.
 Mùa thu, 1990
Chiếc lược ngà
Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ, giữa Tháp Mười mà xung quanh nước đã lên đầy, nói cho đúng đây là cái trạm của đường dây giao thông, nhà nhỏ nhưng người lại đông. Chưa đến chuyến đi, chúng tôi còn phải đợi. Ban ngày, chúng tôi chẳng biết đi đâu, hết nằm lại ngồi, có lúc thấy cuồng chân, thật tù túng, nhưng lại có cái thú bù lại là thọc cần câu ra khỏi nhà để câu cá. Ngày câu cá đã đủ ăn rồi, đêm không ai muốn câu nữa. Trong lúc nhàn rỗi ấy, chúng tôi thường hay kể chuyện. Và tôi nghe câu chuyện này của một đồng chí già kể lại. Ông vốn là người hay kể chuyện - nhiều nhất là chuyện tiếu lâm, có cả tiếu lâm kháng chiến nữa, chuyện nào cũng làm cho chúng tôi cười lăn, cười bò. Trước khi kể, bao giờ ông cũng cười mỉm, mặt trở nên hóm hỉnh, đúng là ông lão có duyên già. Nhưng hôm ấy, ông đâm ra khác thường. Ông già kể nhưng vẫn ngồi im, đầu hơi cúi xuống, trầm lặng, mặt ngước nhìn ra mênh mông. Chắc là một chuyện cảm động, chúng tôi đoán như vậy và không đùa nữa. Bên ngoài, một cơn gió ù thổi tới. Cái trạm này - một ngôi nhà cất chen vào giữa một chòm cây giữa khu rừng tràm thưa, mỗi khi có một cơn gió, sóng nối nhau đập vào tàn cây, nhà lại rung lên và lắc lư như một con thuyền đang chơi vơi giữa biển. Sóng đập đều đều vào các chòm cây. Đàn cò đứng ngủ không yên, một vài con vỗ cánh bay chấp chới. Sóng gió như nhắc nhở ông điều gì, ông nghiêng tai lắng nghe. Khi cơn gió thổi qua, mặt nước trở lại yên lặng, ông mới ngẩng lên và nói. Ông nói với chúng tôi mà như nói với cả trời nước vậy, ông không nhìn vào chúng tôi mà nhìn ra biển nước, chân trời và các vì sao.
- Chuyện xảy ra cách đây đã hơn một năm rồi, mà mỗi lần nhớ lại, tôi cứ bàng hoàng như vừa thấy một giấc mơ - ông mở đầu với giọng trầm đục: - Hôm đó, tôi đi từ trạm N. G. đến L. A. Khi chiếc xuồng máy đuôi tôm vừa xô ra bến thì chúng tôi ai cũng muốn biết người lái ấy là ai. Không phải tò mò mà cần phải biết. Bởi vì trước khi đi, người trạm trưởng có báo cáo với chúng tôi đó là một đoạn đường dài, một đoạn đi xuồng máy, một đoạn đi bộ, đi xuồng dễ gặp trực thăng soi, anh em phải bình tĩnh, không được nhốn nháo, không được tự động mà phải tuyệt đối tuân theo sự điều khiển của người lái. Nói như vậy có nghĩa là sinh mạng mình phải hoàn toàn phó thác cho người cầm lái ấy, có phải không các bạn? Cho nên, tôi cần nhìn, cần biết rõ người đang cầm giữ sinh mạng mình. Nhưng trời đã tối rồi, tôi chỉ thấy đó là một cô gái người mảnh khảnh, vai mang cây "cạc- bin" bá xếp của Mỹ, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng.
Trước đó, tôi có được nghe tiếng đồn trạm này có một cô giao liên rất thông minh. Một hôm, cô dẫn một đoàn khách sắp sửa qua sông, cô để khách dừng lại ngoài ruộng xa. Cô và một anh giao liên nữa tiến trước dọn đường. Đến vườn cây bờ sông, cô thấy mình đã lọt vào ổ phục kích của địch. Nhưng cô không bối rối. Cô vừa gọi người bạn của mình vừa nói, cô cố ý nói lớn cho bọn địch nghe: "Tình hình yên, không có gì, anh trở lại dẫn khách đi, còn tôi sang sông lắc xuồng đem qua". Trong câu nói ấy có ám hiệu. Anh giao liên liền quay lại, êm ái đưa khách bọc qua ngả khác, vượt sông cách đó độ một vài cây số. Còn cô ta, trước khi qua sông cô còn gài lại hai trái lựu đạn. Cô qua sông, thế là thoát. Còn đám biệt kích kia, bọn nó tưởng thật, định hốt cả một đoàn khách, nên chẳng dám rục rịch, mà cứ chờ. Chờ mãi, bọn nó biết, nó chửi rủa nhau, trong lúc lục tục kéo về lớ quớ thế nào lại vấp cả hai quả lựu đạn gài, rụng hết mấy mạng. Qua chuyện đó, người ta thêm thắt rằng cô giao liên ấy có cái mũi rất thính, cô dùng mũi để nghe mùi địch và có thể phân biệt được thằng nào là Mỹ, thằng nào là Ngụy nữa.
Tôi nghĩ, nếu người nữ giao liên ấy là cô đang lái chiếc xuồng máy này thì mình không đến nỗi lo lắm. Tôi muốn hỏi nhưng thấy không tiện nên đành phải nói khéo:
- Ở trạm này có mấy cháu nữ vậy hở chú?
- Dạ một chị là chị nuôi với cháu nữa là hai.
Vậy là cô nữ giao liên này rồi, tôi cảm thấy mừng. Nghe giọng cô nói, tôi đoán cô bé độ mười tám hai mươi là cùng. Tôi cảm thấy mến, muốn hỏi thêm nhưng thấy cô đang lom khom quấn dây vào bánh trớn nên lại thôi. Quấn dây vào bánh trớn xong, cô đứng thẳng người, quay lại nói với xuồng sau :
- Tôi đi trước nhé !
Mấy anh giao liên xuồng sau nhao lên :
- Thôi chị Hai đi trước đi.
- Chị út đi mạnh giỏi nhá ! Người gọi chị Hai, người gọi chị út, chẳng biết cô thật thứ mấy.
Cô đáp lại mấy câu láu lỉnh, gọi mấy chú giao liên là em rồi quay lại chúng tôi, hạ giọng hết sức lễ phép :
- Các bác, các chú, các anh có gì quan trọng nên để trong túi áo, hoặc để trong một cái gói riêng. Lỡ gặp trực thăng bắn hoặc gặp biệt kích thì đồ qúy không bị mất, bị cháy.
Cô báo cho chúng tôi những điều không may có thể xảy ra nhưng giọng nói lại dịu dàng - dễ thương nữa - khác hẳn với giọng nói căng thẳng của ông trạm trưởng, nên tôi thấy không lo lắm. Nói xong, cô khom lưng, giật máy. Xuồng rung lên theo tiếng máy nổ giòn, từ từ tách ra khỏi vòm cây rậm, rồi rào rào lướt tới. Gió thổi mát cả người, mát đến từng chân tóc. Nghe cô dặn, anh em khách lúi húi mở bòng. Còn tôi, tôi có cái gì qúy ngoài giấy tờ, tiền ăn đường đã để sẵn trong túi? Tôi chợt nhớ đến cây lược nhỏ. Tôi liền mở bòng, mò lấy cây lược, cho vào túi nhái đựng giấy tờ, bỏ vào túi ngực, rồi cài kim tây lại thật cẩn thận.
Các bạn ! Mỗi lần nhìn thấy cây lược ngà nhỏ ấy là mỗi lần tôi băn khoăn và ngậm ngùi. Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ, tôi bị xúc động như lần ấy. Trong những ngày hoà bình vừa lập lại, tôi cùng về thăm quê với một người bạn. Nhà chúng tôi ở cạnh nhau gần vàm kinh nhỏ đổ ra sông Cửu Long. Chúng tôi cùng thoát ly đi kháng chiến, đầu năm 1946, sau khi tỉnh nhà bị chiếm. Lúc đi, đứa con gái đầu lòng của anh - và cũng là đứa con duy nhất của anh, chưa đầy một tuổi. Anh thứ sáu và cũng tên Sáu. Suốt mấy năm kháng chiến, chị Sáu có đến thăm anh mấy lần. Lần nào anh cũng bảo chị đưa con đến. Nhưng cái cảnh đi thăm chồng ở chiến trường miền Đông không đơn giản. Chị không dám đưa con qua rừng. Nghe chị nói có lý anh không trách được. Anh chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ thôi. Đến lúc được về, cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to:
- Thu ! Con.
Vừa lúc ấy, tôi đã đến gần anh. Với lòng mong nhớ của anh, chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh. Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ cô. Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ  ... . Khô sặc trộn với sầu đâu, cha mình thích lắm đó, anh Năm.
Hai anh em ngồi trước sân. Nó bỏ ô mai vào chai rượu trắng. Thấy tôi nhìn, nó bảo:
- Rượu ngâm ô mai vừa thơm vừa không say. Một lít mới ngà ngà...
Sau vài ly rượu, nó kể:
- Năm mười sáu, cha cho em theo nghề thợ bạc của mình. Cha làm đồ dũa, cha cho em học chạm. Khi em thành nghề, nói không phải khoe, em là thằng thợ chạm giỏi nhất xứ này. Thợ hồ, thợ sửa xe, thợ giầy, thợ nào cũng thợ nhưng thợ bạc là thợ sang nhứt. Em làm ăn khá, chưa giàu thì bị bắt lính. Không biết ngày nào chôn xác, em cưới vợ, rồi xoay qua nghề chụp hình.
- Bây giờ còn chạm được không?
- Sao không? Nhưng ai mướn mà làm.
- Nghề thợ bạc là nghề sang nhưng chỉ sang khi người ta sống yên ổn và giàu có. Trước ngày giải phóng, người ta còn tiền, còn vàng đó, nhưng lộn xộn, không ai nghĩ đến trang sức, thợ bạc đói. Bây giờ, đồ nữ trang người ta đập thành cục, giấu, thợ bạc thất nghiệp dài dài...
- Bây giờ em sinh sống sao?
- Giải phóng rồi, gia đình sum họp, phấn khởi trước cái đã, rồi tới đâu hay tới đó. Nói cho có trời, một bầy con nheo nhóc như vầy tưởng đói, không ngờ lại khá. Nhà em là một đội quân bán cà rem cây hùng mạnh nhứt xóm - Trừ bốn đứa nhỏ, còn tám đứa lớn mỗi thằng một thùng đi từ sáng tới trưa, từ trưa tới chiều, từ chiều tới chín mười giờ đêm. Hồi trước, mỗi ngày mỗi thằng bán hết một thùng. Bây giờ, thằng nào bán hết mức một ngày ba, bốn thùng, có bữa tới năm thùng. Anh biết tại sao không? Anh bộ đội nào cũng thích cà rem, tụi nó nói có anh ăn một ngày hai ba lần, một lần ba bốn cây. Vừa được bán vừa được ăn. Lần nào anh em bộ đội cũng bắt tụi nó ăn trước một cây cho mấy ảnh thấy, cái cây tụi nó ăn, mấy ảnh bao luôn. Tại sao anh biết không? Mấy ảnh sợ có thuốc độc nên bắt tụi nó ăn cảnh giác trước. Có thằng ăn tới kiết.
Nó ngửa mặt, một tay vuốt râu cằm, một tay xoe mép ria. Nó cười. Tôi thì buồn.
- Bây giờ thì em làm gì?
- Ngồi nhà vuốt râu! - Thằng Nghiêm, đứa con của nó ngồi trong góc nói chõ vào.
Nó trợn mắt, thằng nhỏ vụt chạy.
- Nó bảo em ngồi vuốt râu là ý nói em thất nghiệp, chẳng biết làm gì, chỉ biết vuốt râu!
- Để râu ria làm gì, bồm xồm quá, sao không cạo cho sạch sẽ.
Nó chặc lưỡi.
- Em để râu để ria cũng có nguyên cớ của nó. Năm em lên mười lăm, mười sáu em đã có ria. Có một hôm cha nói: "Mầy có bộ ria giống ông nội quá". Nghe nói giống ông nội, em khoái. Từ chỗ khoái em cố ý để ria đi ra vô cho cha nhớ ông nội chơi. Rồi đi lính, để ria cho oai. Còn bây giờ để bồm xồm cho mấy ông cách mạng Ba mươi Tháng Tư ít nhứt cũng nể mặt thằng già, nếu không thì họ sẽ gọi mình bằng thằng.
Thằng Nghiêm lại quay vào, ngồi trong góc. Thằng Nghiêm, mặt lớn hơn tuổi mười lăm, nhưng người nhỏ như mới mười hai mười ba. Người gầy gò chỉ thấy xương với gân, da xạm như đất, chỉ có đôi mắt còn sáng tuổi học trò. Nó nhìn tôi với đôi mắt khao khát và hóng chuyện.
Bác Năm lớn hơn ba con đến tám tuổi mà trông bác trẻ ghê.
Ba nó trợn mắt, nói to:
- Bác Năm mầy là người chiến thắng, còn tao là thằng chiến bại.
Thằng Nghiêm cười:
- Nghe nói bác Năm đi bộ đội năm mười bốn hả bác Năm?
- Ừm.
- Bác có đánh giặc không?
- Có chớ.
- Chừng bao nhiêu trận?
- Vài chục trận gì đó.
- Vài chục? Bác có sợ không?
- Vừa sợ vừa hăng.
Hai cái tay nó cung lại rung rung trước bụng:
- Vừa sợ vừa hăng như đánh lộn vậy hở bác?
- Cũng giông giống vậy.
- Bác có bị B52 không?
- Bị hoài.
- Bác có bị thương lần nào không vậy bác?
- Không.
Nó như giật mình, hơi chồm lên:
- Sao bác giỏi vậy bác?
Ba nó tợp một hớp rượu, phạt tay:
- Mầy phải bắt chước bác Năm chớ đừng bắt chước thằng cha mầy nghe chưa? Nè anh Năm, trong gia đình hay trong dòng họ, có một người để cho con cháu noi gương là quý rồi, không thể chia đều cho mọi đứa mọi thằng, thằng nào cũng ngon. Nghiêm, mầy nghe tao nói chưa!
Nhìn thằng Nghiêm, tôi chợt nhớ năm tôi mười ba, mười bốn. Khi tôi nghe chuyện giữa cha tôi và người bạn của ông, một nhà trí thức yêu nước, tôi khao khát được như ông, và ông đã thắp lên trong tôi một ngọn lửa ước mơ.
*
*            *
Đội quân cà rem cây của nó chỉ "hùng mạnh" được vài tháng. Anh bộ đội không ăn cà rem nữa. Cà rem cây ngày càng ế. Ơở lại đất Sài Gòn sống không nổi, trong phong trào đi kinh tế mới, nó kéo cả nhà trở về quê làm ruộng, làm mướn sống qua ngày.
Về quê, gặp lại nó tôi tưởng là ai, nhận không ra. Mặt mày láng lẫy. Không còn một cọng râu, một cọng ria.
- Lạ lắm sao mà nhìn?
- Cạo râu hồi nào vậy?
- Không cạo không được, anh Năm. Người ta nói, chó mà thua thì chó cụp đuôi, người thua thì người xụi râu, còn tôi thì tôi trụi râu. Chánh quyền ở đây người ta không ưa thằng có râu. Nói đến tên tôi người ta gọi là thằng ngụy râu, đã ngụy còn râu nữa.
Thằng Nghiêm, cũng thằng Nghiêm chen vào:
- Hồi ba con mới cạo râu, thấy cái mặt của ổng như cái bánh bao, tụi con cứ ôm bụng mà cười, cười lăn lóc, cười chảy ra nước mắt.
- Bây giờ sống ra sao? Tôi hỏi.
- Ngày mới về vất vả lắm anh. Bây giờ thì khá rồi, trước nhứt là hũ gạo lúc nào cũng đầy.
- Trúng mùa?
- Lúa thì thất nhưng lại trúng cái khác. Con nhà thợ bạc, lúa với hành còn lẫn lộn, trúng sao được. Cuối cùng là nhờ cái nghề.
Nó kể:
- Về được vài tháng, em để ý thấy làng mình nhà nào cũng tìm ảnh Cụ Hồ để trưng để thờ.
- Ảnh Cụ Hồ mà người ta mua đều là ảnh giấy, duy nhứt chỉ có một người không biết tìm đâu ra một tấm ảnh dệt, người nào cũng trầm trồ. Em cũng mua một tấm ảnh. Em ngồi nhìn Cụ, em nhìn hoài, nhìn hoài rồi em bỗng nảy ra ý nghĩ, sao mình không khắc hình Cụ vào gỗ. Bàn tay chạm vàng chuyển qua khắc gỗ thì khó gì. Vậy là em bào một miếng gỗ mít, cái đầu tiên em dán ảnh vào mặt gỗ rồi theo đường nét có sẵn mà khắc. Nói cho anh biết, bây giờ thì em thuộc lòng. Tranh khắc gỗ đầu tiên em tặng cho Uủy ban để lấy uy tín. Mấy ông chánh quyền xúm lại xem, người nào cũng trầm trồ. Không ai biết mặt Cụ Hồ mà người nào cũng khen giống. Lại còn khen ảnh của em giống hơn ảnh của người khác nữa chứ. "Mấy ảnh khác thấy cụ mập quá. Aảnh này cụ vừa rắn rỏi, vừa khắc khổ, vừa nghị lực lại anh minh". Tranh khắc gỗ Cụ Hồ của em được trưng trong trụ sở Uủy ban. Em bắt đầu có uy. Tiếng lành đồn xa, người ta đến đặt. Giá cả phải chăng, tất nhiên là phải mắc hơn hình giấy. Nghề chạm của em bây giờ nguyên liệu không phải là vàng mà gỗ mít - Gỗ mít mỗi ngày mỗi cạn, nhưng không thất nghiệp, người ta mang gỗ đến cho mình. Bây giờ, đâu đâu nhà nào cũng có tranh khắc gỗ hình Cụ Hồ của em trên trang thờ.
Sạch nhẵn râu nhưng nó vẫn còn thói quen nhếch mép, đưa tay sờ mép, sờ cằm.
Vừa lúc đó có một anh chàng say bước vào. Say mà bên vai lại đeo súng.
Thằng Bảy quèo tôi, rỉ nhỏ:
- Ông xã đội phó. Trước có đi du kích vài ngày. Quậy lắm. Quậy cái bộ râu của tôi, tôi phải cạo, bây giờ quậy gì nữa đây. Anh cứ ngồi đây, anh xem.
Tay say bước tới cửa, ngả ngả nghiêng nghiêng, mặt đỏ lừ, không chào ai, đưa tay chỉ vào mặt thằng em tôi:
- Ê nầy, chú Bảy. Sau này tôi thấy tranh khắc gỗ Cụ Hồ của chú bán nhiều lắm đó. Nói cho chú biết, Cụ Hồ là cha già dân tộc, là thánh nhân. Không phải để cho chú... Tôi chưa nói hết, muốn nói phải giơ tay xin nói đàng hoàng. Nói cho chú biết, tôi đang viết thơ lên Trung ương, nghe nói có một tỉnh nào đó, làm tượng Cụ Hồ đưa tay chào... Anh chàng đã quá say, vừa ngã nghiêng, vừa đưa tay phạt và hét: Không được ! Cụ Hồ không phải thằng nào đi ngang Cụ cũng chào. Lại còn làm con tem dán bao thơ. Không được. Cụ Hồ không đi thơ. Không được! Thơ viết tầm bậy tầm bạ, tụi trai gái viết thơ tình, Cụ cũng đi thơ cho nó à? Không được nghe chưa? Hử?
Thằng em tôi khúm núm:
- Thưa chú xã đội, tôi có dám đâu, chẳng qua tôi đưa Cụ đến nhà bà con, bà con trả công cho tôi thôi.
- Vậy thì được, nhưng sao chú không đưa đến nhà tôi?
- Dạ, tôi cũng vừa xong một bức, tôi xin biếu cho chú.
Thằng em tôi vào nhà bưng bức tranh khắc gỗ to cỡ 4x6 tấc dâng lên anh say. Anh chàng say bưng bức tranh, bỗng chỉ tay vào mặt tôi:
- Ai vậy?
- Dạ, anh Năm tôi ở Sài Gòn mới về.
- Vậy sao? Chú Năm hả.
Lạ lùng sao, nói đến tôi, con ma rượu như biến mất, anh ta tỉnh ngay. Như là nãy giờ anh ta giả say vậy. Cái mặt lừ đừ - hai con mắt lại sáng lên:
- Thưa chú Năm mới về.
- Chú ngồi chơi xơi nước.
- Dạ, được chú Năm. Chú về sao chú không báo xã đội biết. Báo để cháu bố trí người đi bảo vệ. Nè chú Bảy, thằng Nghiêm nữa, thằng Nghiêm đâu?
- Dạ, có cháu.
- Nhớ bảo vệ chú Năm mày nghe chưa. Thưa chú Năm, cháu về.
- Nè, chú Bảy. Tôi biết chú có đi lính ngụy, biết chú chỉ là lính chụp hình, không phải ác ôn. Lâu lâu tôi quậy cho vui vậy thôi. Chú yên tâm.
- Chờ chú say đi rồi thằng Nghiêm hỏi:
- Bác Năm, bác thấy ông xã đội đó sao?
- Cháu thấy sao?
- Vừa dễ ghét, vừa dễ thương.
Tôi cười. Thằng em tôi thì lắc đầu.\
*
*                *
Hai năm sau tôi nhận được thư thằng cháu Nghiêm, thư viết rõ ràng không ngờ:
"... Ở thành phố, chắc bác có nghe tin tụi Pôn Pốt đã đánh qua biên giới. Trong làng, mít tinh kêu gọi tòng quân. Con chưa đúng tuổi, mới mười bảy lớn hơn bác ba tuổi lúc bác đi bộ đội. Con nộp đơn tình nguyện. Con muốn đi vì ba lẽ:
- Một bảo vệ biên cương.
- Hai để trong làng không còn ai gọi con là thằng con lính ngụy nữa, để lúc trở về làng, mấy thằng nhỏ gọi mình là anh bộ đội cho sướng. Ông xã đội say phải ngán.
- Ba là noi gương bác.
Ba con đồng ý. Má con khóc nhưng cho tiền con đi đường...".
Những năm sau này tôi ít về quê, nhưng vẫn nghe tin. Tôi được biết thêm trong các cuộc mít tinh kêu gọi tòng quân, thằng cháu Nguyễn Văn Nghiêm luôn được nêu gương sáng.
Rồi lại nghe thằng cháu trở thành lính lái xe tăng. Đời sống của thằng em bắt đầu ổn định. "...Em đã trở lại nghề thợ chạm. Trước ăn mạt cưa với dăm bào, bây giờ thì ăn bụi nhưng là bụi vàng. Đã lợp lại nhà. Tụi nhỏ bắt đầu đi học. Thằng Nghiêm thỉnh thoảng viết thư về, khoe hết trận này đến trận khác..." Lòng tôi đỡ bứt rứt.
Sau ngày đánh tan bọn Pôn Pốt, thằng cháu Nghiêm trở về với cấp bậc trung úy. Uủy ban xã tổ chức mít tinh cho dân làng nghe nó báo cáo chiến công. Nó gọn gàng trong quân phục, da dẻ hồng hào, đeo lon một gạch hai sao. Chẳng biết nó giống ai mà miệng nói cứ dẻo quẹo, chắc là đã quen miệng rao bán cà rem, nó nói vừa hùng hồn, vừa lưu loát. Qua lời nó kể, người làng hình dung từng đoàn xe tăng ầm ầm vượt suối băng rừng. Nghe như vang lên cả tiếng nhạc hùng tráng như cảnh trong phim. Người nghe cứ hừng hực, cứ sôi lên tưởng như mình cũng là người lính đang lao lên trong tiếng súng...
Một hôm, tôi lại về quê. Đến nhà, thằng Bảy đi vắng. Nghe nói nó được Uủy ban mời đi dự lễ kỷ niệm ngày thành lập quân đội với tư cách là cha của trung úy xe tăng. Tôi đến chỗ mít tinh tìm nó, người ta chỉ:
- Ổng ngồi trên hàng Chủ tịch đoàn đó.
- Sao tôi không thấy.
- Đó đó, ổng để râu đó.
- A, đúng là nó. Nó lại để râu để ria, cái bộ ria củ ấu. Ngồi trên hàng ghế cao. Nó ngước mặt, vểnh râu.
                  30/11/1993

Tài liệu đính kèm:

  • doctuyen_tap_truyen_ngan_nguyen_quang_sang.doc