Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giảng dạy môn ngữ văn ở trường THCS

Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giảng dạy môn ngữ văn ở trường THCS

ỨNG DỤNG CNTT TRONG VIỆC GIẢNG DẠY

MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS

A.ĐẶT VẤN ĐỀ:

Trong những năm gần đây, các thành tựu của khoa học, đặc biệt là công nghệ thông tin (CNTT) đang dần dần trở thành công cụ hữu ích đối với tất cả các lĩnh vực trong xã hội, CNTT đã làm thay đổi khá lớn đến hình thức, nội dung các hoạt động kinh tế, văn hoá và đời sống xã hội loài người. Ứng dụng của CNTT ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Do vậy, đối với nước ta hiện đang trong giai đoạn đổi mới và hội nhập, ý nghĩa và tầm quan trọng của CNTT lại càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Đối với ngành giáo dục, việc ứng dụng CNTT lại càng có ý nghĩa đặc biệt.

 Việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực chủ động sáng tạo của học sinh lại càng nâng cao vai trò của CNTT trong giảng dạy. Đây là một hướng mới trong giảng dạy, giảng dạy bằng CNTT có thể vận dụng được trong hầu hết các bậc học và môn học như: Tiếng Anh, Ngữ Văn, Toán, Vật Lý, Hoá Học, Sinh Học, Địa Lý Với CNTT giáo viên có thể giới thiệu ngữ liệu mới bằng những tình huống sinh động với tranh ảnh minh họa phong phú, cùng với sự hỗ trợ của các phần mềm sẽ tạo thành một giáo án hoàn hảo giúp học sinh say mê học tập, phát huy tính chủ động tìm hiểu và khắc sâu kiến thức bài học.

Môn Văn, với đặc thù vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật- nghệ thuật sử dụng ngôn từ, cho nên có người quan niệm rằng: dạy- học văn không cần thiết phải sử dụng đồ dùng trực quan, soạn giáo án điện tử, ứng dụng CNTT vào việc dạy văn mà chủ yếu là trực quan bằng ngôn ngữ. Hiểu như vậy chỉ đúng một phần, nhất là khi giảng giải, phân tích một khía cạnh nào đó mà người nghe cần hiểu, cảm thụ một cách tinh tế. Còn như với những khía cạnh khác như: để hiểu tác phẩm văn, cần biết rõ bối cảnh lịch sử- xã hội; đời sống văn hóa tinh thần, phong tục tập quán của một dân tộc; cuộc đời sự nghiệp của một tác giả; cảnh vật thiên nhiên ở nơi này, nơi khác; nước này, nước khác được mô tả trong tác phẩm mà học sinh (có khi cả giáo viên nữa), cũng chưa mường tượng rõ nét, thì sử dụng phương tiện nghe nhìn, soạn bài giảng điện tử để chèn âm thanh, hình ảnh, tư liệu có liên quan đến tác phẩm một cách đúng mức, đúng chỗ, đúng lúc, hợp lý là rất cần thiết sẽ làm bài học sinh động hơn, thu hút được học sinh hơn.

 

doc 6 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 1542Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giảng dạy môn ngữ văn ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỨNG DỤNG CNTT TRONG VIỆC GIẢNG DẠY 
MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS
A.ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong những năm gần đây, các thành tựu của khoa học, đặc biệt là công nghệ thông tin (CNTT) đang dần dần trở thành công cụ hữu ích đối với tất cả các lĩnh vực trong xã hội, CNTT đã làm thay đổi khá lớn đến hình thức, nội dung các hoạt động kinh tế, văn hoá và đời sống xã hội loài người. Ứng dụng của CNTT ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Do vậy, đối với nước ta hiện đang trong giai đoạn đổi mới và hội nhập, ý nghĩa và tầm quan trọng của CNTT lại càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Đối với ngành giáo dục, việc ứng dụng CNTT lại càng có ý nghĩa đặc biệt. 
 Việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực chủ động sáng tạo của học sinh lại càng nâng cao vai trò của CNTT trong giảng dạy. Đây là một hướng mới trong giảng dạy, giảng dạy bằng CNTT có thể vận dụng được trong hầu hết các bậc học và môn học như: Tiếng Anh, Ngữ Văn, Toán, Vật Lý, Hoá Học, Sinh Học, Địa Lý  Với CNTT giáo viên có thể giới thiệu ngữ liệu mới bằng những tình huống sinh động với tranh ảnh minh họa phong phú, cùng với sự hỗ trợ của các phần mềm sẽ tạo thành một giáo án hoàn hảo giúp học sinh say mê học tập, phát huy tính chủ động tìm hiểu và khắc sâu kiến thức bài học. 
Môn Văn, với đặc thù vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật- nghệ thuật sử dụng ngôn từ, cho nên có người quan niệm rằng: dạy- học văn không cần thiết phải sử dụng đồ dùng trực quan, soạn giáo án điện tử, ứng dụng CNTT vào việc dạy văn mà chủ yếu là trực quan bằng ngôn ngữ. Hiểu như vậy chỉ đúng một phần, nhất là khi giảng giải, phân tích một khía cạnh nào đó mà người nghe cần hiểu, cảm thụ một cách tinh tế. Còn như với những khía cạnh khác như: để hiểu tác phẩm văn, cần biết rõ bối cảnh lịch sử- xã hội; đời sống văn hóa tinh thần, phong tục tập quán của một dân tộc; cuộc đời sự nghiệp của một tác giả; cảnh vật thiên nhiên ở nơi này, nơi khác; nước này, nước khác được mô tả trong tác phẩm mà học sinh (có khi cả giáo viên nữa), cũng chưa mường tượng rõ nét, thì sử dụng phương tiện nghe nhìn, soạn bài giảng điện tử để chèn âm thanh, hình ảnh, tư liệu có liên quan đến tác phẩm một cách đúng mức, đúng chỗ, đúng lúc, hợp lý là rất cần thiết sẽ làm bài học sinh động hơn, thu hút được học sinh hơn.
B. ỨNG DỤNG CNTT TRONG VIỆC GIẢNG DẠY MÔN NGỮ VĂN 
 Ở TRƯỜNG THCS 
1. Những ưu điểm và hạn chế của việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy môn Ngữ văn: 
a) Những ưu điểm: 
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại đã mang lại những hiệu quả nhất định: 
* Với bài đọc hiểu văn bản bản: 
- GV có thể sử dụng giới thiệu hình ảnh tư liệu về tác giả, tác phẩm mà không phải mang theo tranh ảnh, tác phẩm cồng kềnh.
- Với các văn bản ngắn các slide bài có thể chép nguyên văn bản cho HS tiện theo dõi.
- Có thể sử dụng các băng tư liệu để minh họa tác phẩm bằng giọng đọc, giọng ngâm, lời hát của các nghệ sĩ để bài học thêm sinh động. Ví dụ khi dạy bài Lượm (lớp 6), con cò(lớp 9), khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ (lớp 9), Viếng lăng Bác, Mùa xuân nho nhỏ, Đồng chí chúng ta có thể đưa vào các băng ngâm thơ, bài hát để minh hoạ.
- Với các tác phẩm đã chuyển thể thành kịch bản phim (Lão Hạc, Tắt đèn, Cô bé bán diêm, phim tư liệu về Bác Hồ, Tác hại của khói thuốc lá, Ô nhiểm môi trường) có thể sử dụng băng hình phim để tóm tắt tác phẩm, minh họa các trích đọan được học. 
 * Với các bài Tiếng Việt và Làm văn:
- GV có thể đưa lên màn hình toàn bộ hệ thống ngữ liệu mẫu, sơ đồ, bảng biểu khái quát hoá nội dung bài học mà không cần đến hệ thống bảng phụ vốn rất cồng kềnh như trước đây.
- Với các bài học liên quan đến văn bản nhật dụng, GV sử dụng các băng hình tư liệu liên quan đến bài học để minh họa thì rất hiệu quả. Chẳng hạn khi dạy bài Động Phong Nha, Cầu Long Biên- chứng nhân lịch sử (lớp 6), Một thức quà của lúa non- Cốm, Ca Huế trên sông Hương (lớp 7), Ôn dịch thuốc lá, Bài toán dân số, Thông tin về ngày trái đất năm 20009 (lớp 8) hoặc dùng các kênh hình để phục vụ cho các tiết dạy về thể loại văn thuyết minh. 
- Việc đổi màu chữ thật sự tiện ích trong giảng dạy Tiếng Việt.
- Sử dụng bài giảng điện tử, GV có thể dễ dàng trình chiếu toàn bộ các đề bài tập nhóm, bài tập ô chữ, bài tập điền khuyết, trò chơi đuổi hình bắt chữ, các câu hỏi trắc nghiệm khách quan khi kiểm tra đầu hoặc cuối bài học cho HS tiện theo dõi.
- Khi soạn 1 tiết bài giảng điện tử, GV có thể giữ lại để giảng dạy ở nhiều lớp khác nhau. Bài giảng điện tử có thể được xem là một bộ đồ dùng dạy học hết sức có ích.
- Bài giảng điện tử cũng dễ bổ sung, sữa chữa, thay đổi cấu trúc bài dạy, dễ trao đổi với đồng nghiệp.
- Đối với giáo viên, việc soạn bài với những ứng dụng của CNTT cũng mang lại những hiệu quả khác biệt. Bản thân giáo viên phải thường xuyên cập nhật kiến thức về chuyên môn và Tin học để tự nâng cao tay nghề. Đặc biệt khi bắt tay vào soạn một bài dạy có vận dụng CNTT, giáo viên thật sự bị cuốn hút và càng làm nhiều thì càng thích thú và nảy sinh thêm nhiều ý tưởng. Từ đó lòng yêu nghề và sự sáng tạo cũng được bồi đắp. 
- Lợi ích quan trọng nhất là học sinh không còn sợ, không còn chán ghét môn Văn nữa. Đây chính là điều kiện cần thiết để Văn chương thực thi sứ mệnh giáo dục nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh. Thật vậy, nếu học sinh không thích học Văn thì làm sao các em có thể lĩnh hội những bài học về cuộc sống được ẩn chứa trong các  tác phẩm văn chương?
Tuy nhiên mức độ hứng thú và tiếp thu bài hiệu quả của học sinh trong những giờ học có ứng dụng CNTT còn phụ thuộc vào chất  lượng của giờ dạy.
 b) Những hạn chế: 
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, việc ứng dụng CNTT vào dạy học môn Ngữ văn còn tồn tại không ít những hạn chế cần khắc phục:
- Như đã nói ở trên, dạy – học Ngữ văn không đơn thuần chỉ là cung cấp kiến thức, kỹ năng cần thiết mà còn dạy cách tiếp nhận tác phẩm, bồi dưỡng năng lực cảm thụ và năng lực ngôn ngữ. Hoạt động này đòi hỏi người thầy phải vận dụng nhiều phương pháp, phương tiện dạy học khác nhau một cách linh hoạt, phù hợp. Nếu ứng dụng CNTT không có sự chọn lọc cho đúng tính chất, nội dung, cách thức hoặc ứng dụng CNTT một cách thái quá, cả giờ dạy giáo viên chỉ click chuột và click chuột thì sẽ làm mất hết cảm xúc tự nhiên, làm hạn chế chất văn, chất thơ trong từng bài dạy. Như vậy, hiệu quả sẽ không như mong muốn.
- Hiện nay nhiều giáo viên đã cố gắng ứng dụng CNTT vào dạy học tuy nhiên trong quá trình giảng dạy vẫn còn nặng về hình thức, mang nặng tính chất trình diễn với nhiều hình ảnh, hiệu ứng rối mắt. Nhiều giờ dạy giáo viên còn ôm đồm, tham lam nhồi nhét các loại thông tin, phim, ảnh làm mất thời gian nhưng hiệu quả giờ dạy không cao. 
- Trong tiến trình lên lớp với bài giảng điện tử, một số giáo viên thao tác quá nhanh, học sinh không kịp chép bài, ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và mức độ hiểu bài của các em không cao. 
          - Việc soạn giảng với các phần mềm mất rất nhiều thời gian, một tiết dạy 45 phút có khi phải chuẩn bị trước vài ngày thậm chí cả tháng trời, rồi máy hư, phần mềm bị lỗi tất cả sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến giờ dạy của giáo viên.
          - Trên thực tế, hầu hết học sinh đều say mê, thích thú được học những giờ Văn có ứng dụng CNTT. Song, bên cạnh đa số học sinh tiếp cận nhanh chóng với phương pháp học mới này vẫn còn những tồn tại cần khắc phục sau: Một số học sinh chưa thật thích nghi với phương pháp học hiện đại này, chỉ thụ động ngồi nghe, xem phim, ảnh và sôi nổi bình luận hoặc say sưa nghe thầy giáo giảng quên cả việc ghi bài. Một số khác gặp khó khăn trong việc ghi chép bài: không biết lựa chọn thông tin, nội dung chính để ghi vào bài học, ghi chậm hoặc không đầy đủ...
- Máy móc chưa thật sự phổ biến ở những trường vùng sâu, vùng xa. Với các trường ở trung tâm số lượng máy cũng không nhiều. Khi muốn dạy phải sắp xếp và di chuyển lớp rất tốn thời gian
2. Một số biện pháp ứng dụng CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn.
2.1)    Xây dựng thư viên tư liệu.
Để phục vụ cho công tác giảng dạy, đối với môn Ngữ văn kho tư liệu là điều kiện cần thiết và đặc biệt quan trọng. Nhưng hiện nay ở môn học này, các đồ dùng trực quan hầu như không có, tranh ảnh minh họa trong sách giáo khoa không nhiều. Chính vì vậy bản thân giáo viên phải chú trọng xây dựng thư viện tư liệu phục vụ tốt cho công tác giảng dạy.
 	Trước đây giáo viên xây dựng kho tư liệu bằng cách đọc, tham khảo tài liệu, sách, báo và chép lại những thông tin cần thiết vào sổ tích lũy chuyên môn. Hiện nay việc ứng dụng CNTT giúp giáo viên xây dựng thư viện tư liệu thuận lợi, phong phú, khoa học hơn và không mất nhiều thời gian như trước đây. Việc khai thác tư liệu có thể lấy từ các nguồn:
          + Khai thác thông tin, tranh, ảnh, tư liệu bài giảng từ mạng Internet 
          + Khai thác tranh ảnh từ sách, tài liệu, báo chí, tạp chí ...
          Trong quá trình tham khảo sách, báo, tài liệu gặp những tranh, ảnh đặc biệt cần thiết, có thể dùng máy Scan quét ảnh và lưu vào USB, cuối cùng cập nhật vào kho tư liệu của mình để phục vụ cho quá trình giảng dạy. 
          + Khai thác từ băng hình, phim video, các phần mềm, tranh ảnh, bản đồ, hình vẽ... thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính.
     Từ các nguồn khai thác trên giáo viên sẽ lưu trữ cho mình một thư viện tư liệu phong phú, đa dạng để phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên cần lưu trữ thành từng file dữ liệu để dễ dàng tìm kiếm khi sử dụng. 
          2.2) Xây dựng bài giảng điện tử. 
  a. Các phần mềm thiết kế bài giảng điện tử thường được sử dụng trong dạy học Ngữ văn.
          Phần mềm CNTT được giáo viên Ngữ văn sử dụng phổ biến nhất hiện nay là phần mềm Powerpoint. Đây là phần mềm đơn giản, dễ thiết kế trình chiếu và có tác dụng tích cực, rõ nét nhất. 
          Bên cạnh Powerpoint là phần mềm Violet, phần mềm thiết kế bài giảng điện tử của Công ty Bạch Kim, với giao diện trực quan, dễ dùng, ngôn ngữ giao tiếp hoàn toàn bằng tiếng Việt rất thuận lợi cho giáo viên. Phần mềm này cũng cung cấp một hệ thống các công cụ soạn thảo giúp giáo viên soạn bài giảng nhanh chóng. Trong quá trình soạn giáo án, Violet còn cung cấp sẵn nhiều mẫu bài tập chuẩn thường được sử dụng trong sách giáo khoa, sách bài tập (như bài tập trắc nghiệm, bài tập ô chữ, bài tập kéo thả chữ/kéo thả hình ảnh ). 
 b. Quy trình thiết kế một bài giảng điện tử.
          Thiết kế một giáo án điện tử không thể tuỳ tiện, tuỳ hứng mà cần tuân theo những quy tắc, quy trình nhất định tương tự như quá trình soạn một giáo án truyền thống. Việc soạn giảng có thể tiến hành theo các bước sau:
          - Xác định rõ mục tiêu bài dạy.
          - Xác định kiến thức cơ bản, nội dung trọng tâm.
          - Lựa chọn tư liệu, tranh ảnh, phim  và những thông tin cần thiết phục vụ bài dạy.
          - Lựa chọn phầm mềm soạn giảng, lựa chọn cách trình bày, các hiệu ứng phù hợp   xây dựng tiến trình dạy học thông qua các hoạt động.
          - Chạy thử, sửa chữa và hoàn thiện bài giảng.
          2.3) Đa dạng hóa các phương pháp dạy học.
          Bên cạnh ứng dụng CNTT được coi là phương pháp hiện đại góp phần tích cực cho đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên cần chú ý đa dạng hóa các hình thức dạy học, phải biết kết hợp với các phương pháp dạy học khác như: nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại, thuyết trình, làm việc theo nhóm, hướng dẫn học sinh tự học, tự nghiên cứu... Tùy theo đặc điểm của từng chương, từng bài, tùy theo đối tượng học sinh để sử dụng các phương pháp giảng dạy thích hợp mới có thể đạt được hiệu quả cao trong dạy và học. 
         2.4 ) Hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT phục vụ học tập. 
Những năm gần đây, việc ứng dụng CNTT rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực đã tác động rất lớn đến khả năng ứng dụng CNTT của học sinh. Nhiều em học sinh tiếp cận rất nhanh, sử dụng thành thạo nhiều phần mềm vi tính. Đặc điểm nổi bật ở các em học sinh hiện nay là tính năng động, sáng tạo và yêu thích cái mới. Do vậy việc hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT phục vụ cho phương pháp học tập là điều nên làm và cũng là xu hướng chung trong giáo dục thời đại hiện nay. 
- Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh địa chỉ một số trang web và yêu cầu các em tìm kiếm thông tin ở mạng internet để phục vụ công việc học tập theo từng chủ đề, từng giai đoạn văn học hay một bài học về tác phẩm cụ thể. Ví dụ: Có thể hướng dẫn các em lên mạng sưu tầm tài liệu về tác giả, các tập thơ hoặcâccs thông tin cần thiết cho bài văn thuyết minh. 
3. Những kinh nghiệm bước đầu từ việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy Ngữ văn: 
3.1) Môn Ngữ văn ở trường phổ thông bao gồm các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Giảng văn. Trong các phân môn này không phải phân môn nào và không phải bài nào, phần nào của mỗi phân môn cũng đều có thể ứng dụng CNTT để giảng dạy được. Và đương nhiên không phải bất cứ tiết nào, bài nào cũng biến thành giáo án điện tử để trình chiếu được. Muốn ứng dụng CNTT thật sự hiệu quả phải chọn các nội dung, các vấn đề phù hợp. 
3.2) Trong dạy – học Ngữ văn, chỉ nên sử dụng CNTT khi thật cần thiết và sử dụng với tỷ lệ ít hơn so với các dạng hoạt động và các phương tiện dạy học khác (như thuyết giảng, đàm thoại, thảo luận nhóm, phát vấn, nêu vấn đề )
3.3) Khi sử dụng các phầm mềm thiết kế giáo án điện tử phải thận trọng, cân nhắc để lựa chọn các hiệu ứng phù hợp về màu sắc, kiểu chữ, cỡ chữ, cách chạy chữ, thiết kế màn hình, âm thanh, tiếng động phải phù hợp, tránh lạm dụng.
3.4) Giáo án điện tử cần phải được thiết kế một cách khoa học, để qua từng slile chi tiết, học sinh phải nhận biết được những nội dung nào là nội dung chính cần ghi chép, nội dung nào là phần diễn giải của giáo viên Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần lưu ý đến khả năng tiếp thu , lĩnh hội kiến thức, khả năng ghi chép bài của học sinh để có hướng điều chỉnh kịp thời. Việc giảng dạy bằng bài giảng điện tử phải thật sự “ăn khớp” giữa lời giảng của GV và nội dung trình chiếu trên các slide, tránh tình trạng “ lời GV nói một đằng, nội dung bài giảng chạy một nẻo” .
3.5) Trong quá trình giảng dạy, giáo viên là người hướng dẫn học sinh học tập chứ không đơn giản chỉ là người phát động, cung cấp thông tin. Do vậy, giáo viên phải biết đánh giá và lựa chọn thông tin, hình ảnh, đoạn phim phục vụ bài dạy có tính thiết thực, làm rõ nội dung bài dạy, tránh tham lam, nhồi nhét các loại thông tin, phim, ảnh không phù hợp làm giảm hiệu quả bài dạy.
6) Một điều đáng lưu ý là cần hiểu đúng CNTT chỉ là một phương tiện hỗ trợ đắc lực cho đổi mới phương pháp dạy học, bởi vì quá trình giáo dục con người không thể “công nghệ hóa” hoàn toàn được, có nhiều mặt giáo dục không thể quy trình hóa được như giáo dục nhân văn, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ... Xác định điều này, trong quá trình giảng dạy giáo viên tránh lạm dụng CNTT, xem CNTT là độc tôn, là duy nhất.
7)  Để ứng dụng CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả cao, giáo viên phải thường xuyên không ngừng tự học để nâng cao trình độ chuyên môn mà còn phải nâng cao khả năng sử dụng CNTT.
C. KẾT LUẬN:
             Tóm lại CNTT nói chung, sự hỗ trợ của Power Point nói riêng trong giảng dạy sẽ giúp GV tiết kiệm được nhiều thời gian trong việc ghi bảng. Ngoài ra nó còn giúp GV sử dụng tốt các tư liệu minh họa thật thuận lợi, nó tạo điều kiện để GV tổ chức cho HS học tập một cách hứng thú chủ động. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy văn.
             Hình thức dạy học này là một trong những cách hỗ trợ GV đổi mới phương pháp giảng dạy song cũng không thể thay thế hoàn toàn vai trò chủ động, sáng tạo của GV trong việc tổ chức các hoạt động nhận thức của HS. Đặc biệt, việc thiết kế nội dung trình diễn bằng Power Point tuy không quá khó đối với GV nhưng phải đòi hỏi một sự chuẩn bị công phu và mất nhiều thời gian. Việc kết hợp các ưu thế của CNTT-TT là cần thiết nhưng phải kết hợp linh họat với phuơng pháp dạy học truyền thống sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể, có hiệu quả và phát huy tốt tính tích cực, độc lập học tập của HS là giải pháp tốt nhất.
 Xin cảm ơn và mong được sự góp ý của Quý thầy cô !

Tài liệu đính kèm:

  • docVIEC LAM MOI CUA GIAO VIEN HAY.doc