Văn mẫu 9 - Bàn về một bài ca dao thời minh mạng

Văn mẫu 9 - Bàn về một bài ca dao thời minh mạng

Cái váy của người đàn bà đất Bắc không biết xuất hiện từ bao giờ, nhưng đến khi nhà Minh xâm lăng Việt Nam vào năm 1414, thì ngay sau đó “bọn Hoàng Phúc muốn bắt dân ta đồng hóa với người Tàu, cấm con trai con gái không được cắt tóc, đàn bà con gái phải mặc áo ngắn quần dài theo kiểu người Tàu, nghĩa là không được mặc váy như trước . . .” (ĐLQT, tr.206).

Váy là đồ mặc che nửa thân người phía dưới của người đàn bà xứ Bắc ngày xưa. Nó có hình thức gần giống như cái skirt (Mỹ) hay cái jupe (Pháp) của người phụ nữ Tây phương thường mặc. Và đúng như người bình dân của ta đã mô tả trong một câu đố như sau:

 Vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu,

 Bên ta thì có, bên Tàu thì không.

 Đến năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) đời vua Lê Huyền Tông (1663-1671), nhà vua lại ra sắc dụ cấm đàn bà con gái mặc quần theo kiểu Tàu mà trở lại mặc váy theo y phục truyền thống của dân tộc.

 Vậy là, sau 250 năm, người đàn bà xứ Bắc lại mặc váy như trước thời kỳ bị quân Minh xâm lược bắt phải đồng hóa theo kiểu ăn mặc của đàn bà Tàu. Đó là tình trạng ở đất Bắc tức từ Thanh Hóa trở ra. Tình trạng ở phía nam đèo Ngang tức từ Quảng Bình trở vào lại khác.

 Số là, vào năm 1558, Nguyễn Hoàng được vua Lê cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa rồi sau đó cho kiêm nhiệm trấn thủ đất Quảng Nam. Nguyễn Hoàng lúc đầu còn phải ra vào đất Bắc để phục vụ cho vua Lê, nhưng đến năm 1559 cuối đời vua Lê Thế Tông (1573-1599), Trịnh Tùng xưng vương hiệu là Bình An Vương lập nên phủ Chúa và vua Lê chỉ còn hư vị thì ngay năm sau (1600), Nguyễn Hoàng cũng lo củng cố và xây dựng đất Thuận Hóa rồi sau đó là đất Quảng Nam để đối đầu với chúa Trịnh ở đất Bắc. Đến khi Nguyễn Hoàng mất (1613), con là Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) lên thay, Nguyễn Phúc Nguyên tự bổ nhiệm quan lại để cai trị đất Đàng Trong, không còn nhận quan lại của vua Lê và chúa Trịnh gởi vào nữa. Tuy nhiên, đến đời chúaNguyễn Phúc Trú (1725-1738) các chúa Nguyễn vẫn chỉ xưng quận công hay quốc công và vẫn tuân theo một số luật lệ và phong tục của đất Bắc. Đến đời Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), Khoát mới xưng vương gọi là Võ Vương (1744) đúc ấn quốc vương, định triều nghi và đưa ra một số cải cách để chứng tỏ sự tách biệt hoàn toàn với đất Đường Ngoài, chẳng hạn:

 “Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương ở phương Nam bắt dân gian cải cách y phục. Theo giáo sĩ Koffler thì chúa bắt bỏ lối quần áo thô bỉ của người đường ngoài, mà châm chước theo lối quần áo của người Tàu. Có lẽ từ bấy giờ, người đàn bà đường trong bắt đầu mặc áo gài khuy và mặc quần, mà không mặc áo thắt vạt và mặc váy như người đường ngoài nữa.” (VNVHSC, tr.173)

 

doc 5 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 818Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Văn mẫu 9 - Bàn về một bài ca dao thời minh mạng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀN VỀ MỘT BÀI CA DAO THỜI MINH MẠNG
ĐÀO ĐỨC NHUẬN
Cái váy của người đàn bà đất Bắc không biết xuất hiện từ bao giờ, nhưng đến khi nhà Minh xâm lăng Việt Nam vào năm 1414, thì ngay sau đó “bọn Hoàng Phúc muốn bắt dân ta đồng hóa với người Tàu, cấm con trai con gái không được cắt tóc, đàn bà con gái phải mặc áo ngắn quần dài theo kiểu người Tàu, nghĩa là không được mặc váy như trước . . .” (ĐLQT, tr.206).
Váy là đồ mặc che nửa thân người phía dưới của người đàn bà xứ Bắc ngày xưa. Nó có hình thức gần giống như cái skirt (Mỹ) hay cái jupe (Pháp) của người phụ nữ Tây phương thường mặc. Và đúng như người bình dân của ta đã mô tả trong một câu đố như sau:
                        Vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu,
                        Bên ta thì có, bên Tàu thì không.
            Đến năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) đời vua Lê Huyền Tông (1663-1671), nhà vua lại ra sắc dụ cấm đàn bà con gái mặc quần theo kiểu Tàu mà trở lại mặc váy theo y phục truyền thống của dân tộc.
            Vậy là, sau 250 năm, người đàn bà xứ Bắc lại mặc váy như trước thời kỳ bị quân Minh xâm lược bắt phải đồng hóa theo kiểu ăn mặc của đàn bà Tàu. Đó là tình trạng ở đất Bắc tức từ Thanh Hóa trở ra. Tình trạng ở phía nam đèo Ngang tức từ Quảng Bình trở vào lại khác. 
            Số là, vào năm 1558, Nguyễn Hoàng được vua Lê cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa rồi sau đó cho kiêm nhiệm trấn thủ đất Quảng Nam. Nguyễn Hoàng lúc đầu còn phải ra vào đất Bắc để phục vụ cho vua Lê, nhưng đến năm 1559 cuối đời vua Lê Thế Tông (1573-1599), Trịnh Tùng xưng vương hiệu là Bình An Vương lập nên phủ Chúa và vua Lê chỉ còn hư vị thì ngay năm sau (1600), Nguyễn Hoàng cũng lo củng cố và xây dựng đất Thuận Hóa rồi sau đó là đất Quảng Nam để đối đầu với chúa Trịnh ở đất Bắc. Đến khi Nguyễn Hoàng mất (1613), con là Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) lên thay, Nguyễn Phúc Nguyên tự bổ nhiệm quan lại để cai trị đất Đàng Trong, không còn nhận quan lại của vua Lê và chúa Trịnh gởi vào nữa. Tuy nhiên, đến đời chúaNguyễn Phúc Trú (1725-1738)  các chúa Nguyễn vẫn chỉ xưng quận công hay quốc công và vẫn tuân theo một số luật lệ và phong tục của đất Bắc. Đến đời  Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), Khoát mới xưng vương gọi là Võ Vương (1744) đúc ấn quốc vương, định triều nghi và đưa ra một số cải cách để chứng tỏ sự tách biệt hoàn toàn với đất Đường Ngoài, chẳng hạn: 
            “Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương ở phương Nam bắt dân gian cải cách y phục. Theo giáo sĩ Koffler thì chúa bắt bỏ lối quần áo thô bỉ của người đường ngoài, mà châm chước theo lối quần áo của người Tàu. Có lẽ từ bấy giờ, người đàn bà đường trong bắt đầu mặc áo gài khuy và mặc quần, mà không mặc áo thắt vạt và mặc váy như người đường ngoài nữa.” (VNVHSC, tr.173)
            Vậy có thể nói, từ đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát trở về sau, cách ăn mặc của người Đàng Trong lại giống như cách ăn mặc của người Đàng Ngoài thời kỳ trước khi vua Lê Huyền Tông ra lệnh bỏ lối phục sức theo kiểu nhà Minh, hay nói một cách khác, trong lúc phụ nữ Đàng Trong dưới quyền chúa Nguyễn mặc quần dài 2 ống thì người phụ nữ Đàng Ngoài dưới quyền vua Lê chúa Trịnh lại mặc váy.
Đến khi nhà Nguyễn dựng đế nghiệp (1802),  để thống nhất việc ăn mặc cho cả nước, vua Minh Mạng (1820-1840) đã hai lần ra sắc dụ bắt dân chúng Đàng Ngoài phải thay đổi cách ăn mặc theo người Đàng Trong. Việc cải đổi y phục của vua Minh Mạng đã gặp phải sức kháng cự của người dân Đàng Ngoài bằng hành động bất tuân phục và đặt ra những bài hò vè để chế diễu phản đối.
            Trong tác phẩm Đất Lề Quê Thói, tác giả Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu đã viết về vấn đề này như sau:
            “Người xứ Bắc vốn không qui phục nhà Nguyễn . . . lại gặp phải chính sự hà khắc cấm đoán cả về y phục, trái với lẽ thường, dân mất váy lần này có câu ca rằng:
Tháng chín có chiếu vua ra:
Cấm quầnkhông đáy người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi ra bóc lột quần chồng sao đang.
Có quần ra quán bán hàng,
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan ”
            (Đất Lề Quê Thói,  tr. 207-208)
Bài ca dao ở trên có nhiều dị bản.
* Trong Văn Học Bình Dân,  Nguyễn Trúc Phượng cũng sao lục giống như bài trên nhưng câu đầu  hoàn toàn khác:
Chiếu vua mồng sáu tháng ba
 * Trong Tục Ngữ Phong Dao (tập 2) cuả Nguyễn Văn Ngọc và Thi Ca Bình Dân Việt Nam (tập 2) của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh ,  bài ca dao nầy được ghi lại như sau :
            Tháng sáu có chiếu vua ra,
            Cấm quần, cấm áo đôi ta ngặt ngùng.
            Không đi thì chợ không đông,
            Đi ra bóc lột quần chồng mà mang.
* Trong Xã Hội Việt Nam của Lương Đức Thiệp, bài ca dao được sao lục gần giống như của Vũ Văn Khiếu trong Đất lề Quê Thói nhưng “tháng Chín” được đổi ra “tháng Tám”:
            Tháng Tám có chiếu vua ra . . .
            * Trong  Chuyện Cà Kê, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc cũng sao lục giống như bài của Vũ Văn Khiếu trong Đất Lề Quê Thói.
            * Trong một bài biên khảo nhan đề “Thi Ca Trào Phúng Việt Nam” đăng trong Thằng Mõ Nam Cali, giai phẩm Xuân Giáp Thân, 2004, tác giả Vọng Đông lại chép là “tháng Chạp” :
            Tháng Chạp có chiếu vua ra . . .
            Như vậy là, trong câu đầu của bài ca dao nói về thời gian ban hành lệnh cấm mặc váy đã có những sai biệt như sau:
            * Chiếu vua mồng sáu tháng Ba ( theo Nguyễn Trúc Phượng)
            * Tháng Sáu có chiếu vua ra (theo Nguyễn Văn Ngọc , Nguyễn Tấn Long) 
            * Tháng Tám có chiếu vua ra (theo Lương Đức Thiệp)
            * Tháng Chín có chiếu vua ra (theo Phùng Tất Đắc và Vũ Văn Khiếu)
            * Tháng Chạp có chiếu vua ra (theo Vọng Đông)
              Bài ca dao nầy có liên quan đến một sắc chỉ của vua Minh Mạng triều nhà Nguyễn về việc cải cách y phục cho nhất thống từ Bắc chí Nam. Ngoại trừ một vài khác biệt không đáng kể về một số chữ không quan trọng trong bài, điểm khác biệt quan trọng trong các bài được sưu tập, đó là thời gian xuất hiện của “Chiếu vua” : Tháng Ba? Tháng Sáu? Tháng Tám? Tháng Chín? Hay tháng Chạp?
            Chúng ta thử lần theo các trang sử để tìm ra sự thật.
Theo Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu :
            Năm Mậu Tý (1828) Minh Mạng thứ 9 “Tháng 10, truyền đổi cách ăn mặc từ sông Gianh trở ra Bắc”. (quyển 3, trang 74)
            Năm Đinh Dậu (1837), Minh mang thứ 18, “Tháng 9 . . . thân dụ dân tự Hà Tĩnh trở ra phải đổi cách ăn mặc” (quyển 3, trang 112)
            Theo  Biên Niên Lịch Sử Cổ Trung Đại Việt Nam (Từ đầu đến giữa thế kỷ XIX) của Viện Sử Học Hà Nội, sự kiện nầy đã được ghi như sau :
            1828 (Mậu Tý) :“Tháng 10 Âm Lịch, Nhà nước ra lệnh cho nhân dân Bắc Thành từ Thanh Nghệ trở ra Bắc phải thay đổi y phục cho phù hợp với y phục của nhân dân từ sông Gianh trở vào Nam. Lại ấn định, từ Mùa Xuân 1829 y phục của nhân dân phải thay đổi đồng loạt trong cả nước.” (trang 436).
            1837 (Đinh Dậu) : “Tháng 9 âm lịch . . . . Ra lệnh cho nhân dân từ Hà Tĩnh trở ra phải đổi trang phục nữ mặc quần không được mặc váy. Lệnh nầy đã được ban hành từ năm 1827 (?), sau 10 năm nhân dân chưa thi hành, nên lệnh nầy được nhắc lại.”
            Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhị kỷ, quyển 184  ghi lại chiếu dụ của vua Minh Mệnh ban hành vào năm Minh Mệnh thứ 18, năm Đinh Dậu (1837) như sau:
            “Từ sông Gianh ra Bắc, trước đây vẫn còn ăn mặc theo hủ tục. Trẫm đã ra lệnh đổi y phục như từ Quảng Bình trở vào để phong tục thuần nhất. Lại ban hạn rộng rãi để ai nấy có thì giờ khâu may. Nhưng đến nay, kể đã ngoài 10 năm, mà ở Đàng Ngoài bọn ngu phu, ngu phụ vẫn cứ chần chừ chưa chịu đổi thay. Từ Quảng Bình trở vào Nam, hết thảy đã ăn mặc theo lối nhà Hán, nhà Minh, mũ mãng, áo quần đều chỉnh tề, tươm tất. Dân Bắc Kỳ cứ ăn mặc theo lối cũ. Đàn ông, con trai đóng khố, đàn bà, con gái mặc áo vạt khép vào nhau, dưới thì mặc váy. Như vậy đẹp xấu ra sao, mọi sự đã rõ. Một số nơi đã theo thói hay. Nhưng nhiều nơi vẫn duy trì hủ tục, phải chăng cố ý trái lệnh của Trẫm. Nay truyền cho các viên tổng đốc, tuần phủ, bố chánh, án sát các tỉnh phải giải thích, khuyên nhủ cho dân biết rõ ý của Trẫm. Lại ban hạn trong năm nay tất cả phải thay đổi quần áo. Nếu năm tới còn có kẻ nào ngoan cố áo quần, phải trị tội thật nặng”(chép theo Hoàng Hải Thủy)
            Trong tác phẩm Xã Hội Việt Nam, tác giả Lương Đức Thiệp đã nhắc đến vấn đề này như sau:
            “Dưới triều vua Tự Đức cũng có lệnh cấm đàn bà đường ngoài mặc váy. Câu ca dao sau đây đã đánh dấu việc cải cách y phục này:
                        Tháng tám có chiếu vua ra
Cấm quần, cấm áo người ta ngại ngùng
Không đi thì chợ không đông
Đi ra bóc lột quần chồng mà mang
Có quần thì ra đứng đàng
Không chồng (?) ta đứng đầu làng nghé quan”
                                    (XHVN, tr.252)
            Như  đã được trình bày ở trên, sự kiện thay đổi y phục xảy ra vào thời vua Minh Mạng (1820-1840) chứ không phải dưới thời vua Tự Đức (1848-1883) như Lương Đức Thiệp đã nói đến trong tác phẩm Xã Hội Việt Nam của ông.
            Trong Chuyện Cà Kê, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc ghi “ . . .  (1828) Minh Mệnh thứ 9, trong tháng 9 có chiếu cấm dân Bắc mặc váy . . .”. Như trên đã dẫn, chiếu cấm mặc váy được ban ra vào tháng 10 năm Mậu Tý, Minh Mệnh thứ 9 chứ không phải tháng 9 như Lãng Nhân đã ghi.
            Như vậy, bước đầu ta có thể kết luận: thời gian “mồng sáu, tháng Ba”, “tháng Sáu”, “tháng Tám” hay “tháng Chạp” là không phù hợp với lịch sử. Chỉ còn lại tháng Chín hay tháng Mười mới đúng. 
            Đến đây, có một điều chúng ta cần bàn.
            Như ta đã biết, vua Minh Mạng đã 2 lần hạ chiếu cải dịch y phục : 
* Lần thứ nhất là vào tháng Mười năm Mậu Tý (1828), Minh Mạng thứ 9.
* Lần thứ hai là vào tháng Chín năm Đinh Dậu (1837), Minh Mạng thứ 18. Lần nầy, như trong Đại Nam Thực Lục đã ghi, ta thấy lệnh   có vẻ gay gắt hơn nhiều và bắt buộc các quan đầu tỉnh từ Tổng Đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát phải theo dõi việc thực hiện.
Nay ta thử xét về âm vận của thể thơ đã được dùng trong bài ca dao. Đây là một bài  ca dao làm theo thể thơ lục bát. Trong âm luật thơ lục bát, chữ thứ 2 của câu lục (câu 6 chữ) phải là âm bằng, trừ trường hợp câu lục được ngắt nhịp ở chữ thứ 3 thì chữ thứ 2 của câu lục thường phải là âm trắc. Thí dụ: Mai cốt cách, tuyết tinh thần – Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười ; Đau đớn thay phận đàn bà – Lời rằng bạc mênh cũng là lời chung . . . (Kiều – Nguyễn Du).
Nếu xét theo âm luật như trên thì câu lục phải là : “Tháng Mười có chiếu vua ra . . .” nghe vừa xuôi tai lại vừa hợp với sự kiện lịch sử như vừa được dẫn ở trên. Vậy thì tại sao trong tất cả các bản được sưu tập xưa nay lại không có bản nào ghi lại là “Tháng Mười có chiếu vua ra”? Như vậy, theo tôi, có thể là câu ca dao trên chỉ xuất hiện sau khi vua Minh Mạng thấy rằng sắc lệnh lần trước (tháng Mười năm Mậu Tý,1828) không được thi hành đúng mức, vậy nên, 10 năm sau nhà vua đã phải ra lệnh gắt gao hơn (tức lệnh vào tháng Chín năm Đinh Dậu – 1837) lệnh lại bắt buộc các quan đầu tỉnh theo dõi sát nên trong dân chúng mới có sự phản ứng bằng bài ca dao như trên. Cái hiện tượng các quan phải theo dõi việc thi hành đã bị dân chúng vạch trần trong câu cuối : Không quần ra đứng đầu làng trông  quan!
Và như vậy, bài ca dao trên chỉ có thể xuất hiện sau khi vua Minh Mệnh ban chiếu Cải dịch y phục cho dân Đàøng Ngoài lần thứ hai vào tháng 9 năm Đinh Dậu (1837) và câu ca dao đúng phải là : 
“Tháng Chín có chiếu vua ra . . .”
            Dân chúng Bắc Thành , nhất là từ Thanh Nghệ trở ra, xưa mặc váy chứ không mặc quần (hai ống) như dân chúng Nam Hà thời các chúa Nguyễn. Đến thời Minh Mạng nhà vua bắt dân chúng Bắc Hà mặc quần 2 ống, tức không cho mặc váy, nên bị dân chúng phản ứng bằng bài ca dao mỉa mai nói trên.
            Đồng thời với bài ca dao trên đây, ở vùng Thanh Nghệ còn lưu truyền bài vè sau đây:
Bước sang năm mới bình yên,
Chiếu vua hạ truyền:
Cải dịch y phục,
Quan huyện đã giục,
Lý trưởng, mục, tiên,
Lệnh vua đã truyền,
Bắt dân mặc cả.
.  .  .  .  .
Mai phiên chợ Trai,
Phải mượn quần chồng.
Đã cực trong lòng,
Lại thêm xấu hổ.
Không đời mô chộ
Ăn mặc ra ri.
Anh bước chân ra đi,
Không quần mà có áo.
Bắt từ ông lão,
Cho đến gái thanh tân,
Thân lại lập thân
Một người hai bộ.
.  .  .  .  .
            Như ở trên ta đã thấy, đối với dân gian, viết sử không phải chỉ là ghi lại sự kiện : “Tháng Chín có chiếu vua ra: Cấm quần không đáy” mà phần quan trọng chính là phần phê phán, phần nói lên cảm tưởng, thái độ  của dân gian đối với sự kiện : “người ta hãi hùng”, “Có quần ra quán bán hàng, Không quần ra đứng đầu làng trông quan!”. Chính cái phần phê phán, cái phần cảm tưởng này mới giúp ích nhiều cho các nhà xã hội học, các nhà sử học về sau.
                                                         (Trích trong Tản Mạn Về Ca Dao Lịch Sử)
                                                                        ĐÀO ĐỨC NHUẬN

Tài liệu đính kèm:

  • docBAN VE MOT BAI CA DAO THOI MINH MANG.doc