Văn mẫu lớp 9 - Phân tích Bài thơ nói với con của Y Phương

Văn mẫu lớp 9 - Phân tích Bài thơ nói với con của Y Phương

ĐỀ : Phân Tích Bài Thơ Nói Với Con Của Y Phương

I.Mở bài.

“Lời của con hay tiếng sóng thầm thì

Hay tiếng của long cha từ một thời xa thẳm

Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận

Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con”

Đây là những lời thơ da diết của Hoàng Trung Thông trog bài thơ Những cánh buồm mang yn triết lí sâu sắc, vừa thể hiện tình cảm của một người cha thương con sâu nặng làm xúc động long người. Cùng đề tài đó , bài thơ Nói với con cảu YP, một nhà thơ dân tộc Tày lại mang một âm hưởng, một giọng điệu, một nội dung riêng và cũng làm xúc động long người không kém. Bài thơ đã thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền Núi.

II.Thân bài.

Đoạn 1:

Cảm nhận đầu tiên trong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình yêu thương cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người động mình, của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cnah3 gia đình ấm cúng, đầy ắp giọng cười tiếng nói:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.

Với cách nói bằng hình ảnh cụ thể “chân phải, chân trái” “một bước,hai bước”, đoạn thơ giúp ta hình dung ra hình ảnh một em bé ngây thơ, lẫm chẫm tập đi, bi bô tập nói trong vòng tay, trong tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu của cha mẹ, hình ảnh cha mẹ chờ noun, chăm chút từng bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi em, cái tổ ấm để con sống lớn khôn và trưởng thành trogn niềm ước mơ của che mẹ. Bên cha, bên mẹ, cha chờ, mẹ noun, cha mẹ yêu thương nhau và yêu thương con cái. Đó là không khí thường thấy trong cái gia đình hạnh phúc. Đứa con dần lớn lên trong niềm sung sướng, tự hào của người cha.

Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động của người đồng mình, trong quê hương sâu nặng, nghĩa tình:

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nàh ken câu hat

 

docx 7 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 743Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Văn mẫu lớp 9 - Phân tích Bài thơ nói với con của Y Phương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ : Phân Tích Bài Thơ Nói Với Con Của Y Phương
I.Mở bài.
“Lời của con hay tiếng sóng thầm thì
Hay tiếng của long cha từ một thời xa thẳm
Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận
Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con”
Đây là những lời thơ da diết của Hoàng Trung Thông trog bài thơ Những cánh buồm mang yn triết lí sâu sắc, vừa thể hiện tình cảm của một người cha thương con sâu nặng làm xúc động long người. Cùng đề tài đó , bài thơ Nói với con cảu YP, một nhà thơ dân tộc Tày lại mang một âm hưởng, một giọng điệu, một nội dung riêng và cũng làm xúc động long người không kém. Bài thơ đã thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền Núi.
II.Thân bài.
Đoạn 1:
Cảm nhận đầu tiên trong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình yêu thương cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người động mình, của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cnah3 gia đình ấm cúng, đầy ắp giọng cười tiếng nói:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Với cách nói bằng hình ảnh cụ thể “chân phải, chân trái” “một bước,hai bước”, đoạn thơ giúp ta hình dung ra hình ảnh một em bé ngây thơ, lẫm chẫm tập đi, bi bô tập nói trong vòng tay, trong tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu của cha mẹ, hình ảnh cha mẹ chờ noun, chăm chút từng bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi em, cái tổ ấm để con sống lớn khôn và trưởng thành trogn niềm ước mơ của che mẹ. Bên cha, bên mẹ, cha chờ, mẹ noun, cha mẹ yêu thương nhau và yêu thương con cái. Đó là không khí thường thấy trong cái gia đình hạnh phúc. Đứa con dần lớn lên trong niềm sung sướng, tự hào của người cha.
Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động của người đồng mình, trong quê hương sâu nặng, nghĩa tình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nàh ken câu hat
Cách nói that tự nhiên, mộc mạc, mang đậm tính địa phương của người dân tộ Tày “người đồng mình”, đây là cách gọi để chỉ những người cùng sống trên một miền đất, cùng một dân tộc, quê hương, kết hợp cùng với ngữ điệu cảm thán “thương lắm con ơi” đã thể hiện tình cảm gắn bó, gần gũi, than thiết cảu tác giả với mảnh đất và con người quê hương. Hình ảnh “đan lờ”, “vách nhà” hai công việc lao đông gắn liền với đưa qtre3 theo từng lứa tuổi, còn bé thì đan lờ bắt cá, lớn hơn thì dựng nhà, ken vách. Dưới bàn tay của người dân tộc Tày, những nan trúc, nan tre đã trở thành những nan hoa, vách nhà không chỉ được chen bằng gỗ mà còn được chen bằng câu hat. Công việc lao động chẳng những không hề khó nhọc đối với họ mà còn đem lại cho họ niềm vui torng cuộc sống. Ba động từ “Đan,cài,ken” vưa diễn tả động tác lao động, vừa thể hiện sự đoàn kết trogn llao động. Đứa con đã lớn dần, đã gắn bó với quê hương, đất nước:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
“Rừng” nơi người dân tộc miền núi sinh sống, rừng không chỉ cho nhiều gỗ, quý, rừng còn cho hoa, hoa là sản phẩm của thiên nhiên, của núi rừng, hoa còn tượng trưng cho cái đẹp. Con đường là hình bóng than thuộc của quê hương, con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho những tấm long. Con đường in dấu những bước chân xuôi ngược, làm ăn, sinh sống của buôn làng, nên nó có ý nghĩa thieng liêng trong quá trình khôn lớn của con. Chính những tấm long nhân hậu, những tình cảm của bản làng, cảu làng quê đã nâng đỡ con, dìu dắt để con trưởng thành. Sung sướng nhìn con khôn lớn, nhà thơ suy ngẫm về tình nghĩa bản làng quê hương, về cội nguồn, hạnh phúc:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời
Đoạn 2
Không chỉ gợi cho con về cội nguồn sinh dưỡng, cha còn nói cho con về những đức tính tốt đẹp của người đồng mình và ước mơ của dcha về con. Đó là long yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm long. Đó là sức sống bean bỉ, mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn 
Xa nuôi chí lớn
Cách nói mộc mạc nhưng chứa đựng bao ân tình rất cảm động “ người đồng mình” được lặp đi lặp lại như một điệp khcu1 trong bài thơ. Chính tình thương đó là sức mạnh để người đồng mình vượt qua bao gian khổ, nỗi buồn trong cuộc đời. Hai câu thơ rất ngắn, đối xứng với nhau, với hai đơn vị đo khoảng cách: cao, xa da04 diễn tả rất mạnh mẽ ý chí, nghị lực của người động mình. Thông qua đó người cha muốn đứa con:
Sống trân đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Đá núi, rừng cây là nơi ở của những người miên núc nơi đây tuy điều kiện sống có khó khăn, gian khổ nhưng người đồng mình không chê. Điệp ngữ sốngkhông chê kết hợp với ẩn dụ”sống trên đá”, “sống trong thung” vừa thể hiện phẩm chất của người đồng mình vừa bộc lộ mong muốn của người cha: sống fai biết chấp nhận gian khổ, không chê bai, phản bội quê hương, dù quê hương còn nghèo nàn, cực nhọc, vất vả, phải biết chấp nhận và vượt qua gian nan, thử thách chính bằng ý chí và niềm tin của mình. Người đồng mình còn có những đặc tính cao đẹp đáng yêu, đáng quý:
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Bằng giọng thơ tâm tình, nẹh nhàng, với hình ảnh, so sánh cụ thể “như sông như suối”, thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” chúng ta hiểu được tâm hồn của người miền núi hồn nhiên, mộc mạc, giản dị, có sức sống mạnh mẽ, bean bỉ với chí lớn, luôn yêu quý tự hào và gắn bó với quê hương.
Để nhắc nhở, giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng may ai nhỏ bé đâu con
Hình ảnh thơ giản dị, chân thực “thô sơ da thịt” một cách nói rất riêng của người dân miền núi thể hiện được suy nghị mộc mạc, chân thành: tuy hình thức bên ngoài jtho6 sơ, da dẻ đen đủi, xấu xí do suốt ngày làm lụng vất vả , lại không có điều kiện trau chuột về hình thức, cách ăn mặc lại giản dị “khăn phêu áo chàm” nhưng về tâm hồn, về phẩm chất bên trong, người miền núi chẳng hề nhỏ bé, họ luôn sống mở rộng , yêu thương, chan hòa với mọi người xung quanh.Đặc biệt người đồng mình luôn có ý chí xây dựng quê hương vô cùng lớn:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
“Tự đực đá kê cao quê hương” một công việc rất quen thuộc của người đồng minh. Người miền núi sống giữa may ngàn và núi đá, vì vậy họ phải lao động vất vả để có nơi sinh sống, làm ăn, bằng chính sức lực của mình họ đã đấu tranh chinh phục thiên nhiên: chống bão lụt, núi lở, rừng động Với cách nói tả thực kết hợp lối nói ẩn dụ, tác gải giúp ta thấy được bằng sự lao động can cù, nhẫn nại hàng ngày họ đã làm nên quê hương. Sự lao động sáng tạo góp phần xây dựng quê hương, lưu truyền những phong tục, tập quán tốt đẹp cho dân tộc mình.
Kết thúc bài thơ, tác giả từ cảm xúc chung rộng lớn đối với quê hương tác giả trở về một tình cảm riêng tư: tình cha con:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con
Với giọng điệu thiết tha, trìu mean, từ gọi than thương con ơi, nghe con chứa đựng tình yêu thương, tấm lòng của người cha muốn nhăn nhủ với con, hình ảnh thơ được lập lai” tuy thô sơ da thịt”, “ không bao giờ nhỏ bé” , đoạn cuối bài thơ là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc cảu cha đối với con: Đừng bao giờ phản bội truyền thống tốt đẹp cảu dân tộc, đừng bao giờ quay long với các giá trị tinh than cao đẹp của các thế hệ cah ông đi trước. Từ đó cha muốn con can biết sông tự hào về gia đình, quê hương, sống với sức sống maạnh mẽ, ben bỉ, với truyền thống cao đẹp của quê hương không vì mình là người dân tộc mà mặc cảm, tự ti. Đồng thời người cha dặn dò con can tự tin, vững bước trên đường đời, không bao giờ được sống một cuộc đời tầm thường, nhỏ bé, ích kỉ phải biết cố gắng học tập,rèn luyện để góp phần xây dựng quê hương. Hai tiếng nghe con tuy đơn giản nhưng chứa đựng đầy tình cảm, kì vọng vừa là lời dặn dò nhắc nhở đối vơi đứa con gái than iu.
III.Kết bài:
Với thể thơ tự do, sử dụng cách nói giản dị, cụ thể của người miền núi, giọng thơ thiết tha, trìu mean, bài thơ là một điệp khúc về tình yêu con, tình yêu quê hương, đất nước, tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương. Qua những suy nghỉ, tâm sự của người cha đối với con ta thấy được tình yêu thương và khát vọng mà người cha dành cho con. Nếu con cò của CLV là khúc hat về tình mẹ thì ngược lại, nói với con của YP là khúc haut về tình cha con. Đó đều là những bài haut về tình cảm gia đình, cao hơn nữa là tình dân tộc, tình quê hương, Nói với con đã góp phần tạo nên bức tranh về tình người cao đẹp – điều thiêng liêng nhất torng cuộc đời mỗi con người
ĐỀ : Phân tích bài thơ “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt.
I.Mở bài:
	Trong cuộc đời mỗi con người, kỉ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp đẽ, than thương và chứa chan tình nghĩa chẳng thể nào phai nhạt dẫu cho kỉ niệm đó gắn liền với đắng cay, cơ cực. Với Bằng Việt, kỉ niệm về tình bà cháu và tình quê hương chắc sâu nặng lắm, thân thiết lắm mới khơi nguồn cho dòng cảm xúc để ông sáng tạo một tác phẩm đặc sắc: “Bếp lửa”. Bài thơ ra đời năm 1963 khi nhà thơ đang là sinh viên du học ở Liên Xô ( cũ).
	Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm xúc động về tình bà cháu, thể hiện tình cảm kính yêu, biết ơn vô hạn của cháu đối với bà và cũng là đối với quê hương, đất nước.
II.Thân bài:
	1)Hồi tưởng lại những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà cháu:
	Sự hồi tưởng được khơi nguồn từ hình ảnh than thương, ấm áp về bếp lửa:
	“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
	Một bếp lửa ấm iu nồng đượm
	Cháu thương bà biết may nắng mưa”
Hình ảnh bếp lửa gợi lên nét sinh hoạt rất gần gũi, than thuộc trong mỗi gia đình ở làng quê VN từ bao đời nay. Nhưng tác giả đã chọn lọc được nhiều từ ngữ giàu sức biểu cảm để miêu tả tăng sức gợi.“Chờn vờn” là từ láy tượng hình vừa giúp ta hình dung làn sương sớm bay nhẹ quanh bếp lửa vừa gợi cái mờ nhòa của kí ức thời gian. “Ấp iu” gợi nhắc bàn tay bà kiên nhẫn, khéo léo nhen lửa, chăm chút cho ngọn lửa nồng đượm. 
Từ hình ảnh bếp lửa, nhà thơ – người cháu liên tưởng tự nhiên đến người nhóm lửa, người bà kính yêu với nỗi nhớ thương bà của người cháu ở xa.”Biết may nắng mưa” là cách nói ẩn dụ gợi ra phần nào cuộc đời vất vả, lo toan của bà để từ đó càng thương bà hơn.
	Tiếp theo, bài thơ nhắc lại cả một thời thơ ấu bên bà. Tuổi thơ ấy có nhiều gian khổ nhọc nhằn:
	“Lên bốn tuổi cháu đã quan mèn khói
	Năm ấy là năm đói mòn, đói mỏi
	Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gay
	Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
	Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Những kỉ niệm ấy đã rất xa trong quá khứ nhưng đã trở thành ấn tượng khó phai trong tâm trí người cháu. Đó là năm đói Ất Dậu (1945) khi người chết đới như ngả rạ, làng quê lam lũ trong đói nghèo tăm tối. Cho nên giọng thơ ở đây trĩu nặng, âm điệu tram buồn với những hình ảnh biểu cảm” đói mòn, đói mỏi”,”khô rạc ngựa gay”, gợi lại cả một thời cơ cực, đen tối làm nao nao long người. Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là mùi khói bếp: khói hun nhèm mắt cháu, khói nhiều, cay,khét vì củi ướt làm cho “sống mũi còn cay” đến tận bay giờ. Cái vị cay xé ấy sẽ mãi bám theo tâm hồn con người. Cách diễn tả tình thương, nỗi nhớ và nỗi ngậm ngùi về bà, về bố, về quê hương giản dị, bình thường mà that xúc động!
	Hình ảnh “bếp lửa” gợi lại những kỉ niệm tuổi thiếu nhi trong những năm kháng chiến chống Pháp:
	“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
	Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
	Khi tu hú kêu bà còn nhớ khog bà?
	Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
	Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Bà cháu sớm chiều nhóm lửa trong tiếng tu hú đồng vọng trên những cánh đồng quê. Ấn tượng đậm nét nhất trong quãng thời gian này là tiếng tu hú lúc gần lúc xa, như giục giã, khắc khoải một điều gì tha thiết lắm. Đấy là tiếng chim cảu đồng nội, của quê hương hay chính là biểu hiện của tình quê hương sâu nặng khiến long người trỗi day những hoài niệm, những nhớ mong:
	“Mẹ cùng cha công tác bận không về
	Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
	Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
	Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
	Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
	Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp có nhiều gia đình Việt Nam: mẹ,cha bận công tác không về, đứa cháu phải sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà. Bà thay thế vai trò của cả một người mẹ, một người bố:Các cụm từ: bà bảo, bà dạy, bà chăm điệp lại nhiều lần à diễn tả một cách sâu sắc tấm long đôn hậu, tình thương bao la và sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ. Các từ “bà”, “cháu” điệp lại 4 lần gợi tả mối tình bá cháu quấn quýt yêu thương, đùm bọc, chở che. Tám năm ròng như thế ngàyngày, tháng tháng, năm năm cháu cùng bà nhóm lửa, giữ lửa để sống, để đợi chờ Trong nỗi long đó còn vấn vít tiếng chim tu hú. Nhà thơ như tách ra khỏi hiện tại, chìm đắm trong suy tưởng để trò chuyện với con chim quê hương, trách nó không đến ở với bà để bà đỡ nhớ cháu, đỡ cô đơn tuổi già. Câu thơ that tự nhiên, chân thành, cảm động.
	2)Hình ảnh người bà vững chãi, chở che trong những ngày tháng gian khổ, ác liệt.
	Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn. Những phẩm chất cao quý của người bà kính yêu càng được tô dậm:
	“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
	Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
	Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
	Vẫn vững long bà dặn cháu đinh ninh
	“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
	Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
	Cứ bảo nhà vẫn được bình yen!”
	Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
	Một ngọn lửa long bà luôn ủ sẵn
	Một ngọn lửa mang niềm tin dai dẳng”
Đoạn thơ vừa tự sự vừa trữ tình, như một khúc phim tái hiện lại tội ác và nỗi khổ của nhân dân.Nhiều từ ngữ được dùng that khéo, rất giàu sức gợi: “cháy tàn cháy rụi”, “trở về lầm lụi” làm bà xúc động đến mùi long ! Theo dòng hồi tưởng đó, hình ảnh bà càng hiện lên đậm nét: nghị lực vững vàng, tinh than bình tĩnh, tấm long mênh mông Bên cạnh đó bà còn cả một xóm làng đoàn kết” đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”. Tình làng nghĩa xóm trở thành vẻ đẹp tinh than cao quý của những người hậu phương góp phần cho tiền tuyến yen long chiến đấu. Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố làm sáng lên phẩm chất của một người bà, người mẹ Việt Nam yêu nước, giàu đức hy sinh. Tình bà cháu đã hòa vào tình yêu quê hương, tổ quốc. Từ hình ảnh bếp lửa thực, đến theo đây mạch cảm xúc, được nâng lên thành “ngọn lửa” trừu tượng hơn, mang ý nghĩa biểu tượng của sức sống, tình thương, của niềm tin bean bỉ vào tương lai của cuộc kháng chiến. “ Ngọn lửa” không chí của riêng bà mà có sức lay động tâm hồn, lan tỏa, mở rộng thành ý nghĩa biểu tượng của cả dân tộc
	3)Cảm nghĩ về cuộc đời lận đận và tấm long ấm áp yêu thương của bà:
	Kỉ niệm tuổi thơ lắng dần, ý thơ chuyển từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ đối với bà sang những suy nghĩ sâu sắc về cái cuộc đời lận đận của bà, về ân nghĩa sâu nặng của người thanh niên ngày nay với thế hệ ông bà cha mẹ đi trước:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa! 
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ, 
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, 
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, 
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi, 
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui, 
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. 
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa! “	
Hình ảnh người bà ôm trùm cả đoạn thơ. Giọng thơ vẫn thủ thỉ mà ngày càng da diết: “lận đận đời bà”, “may chục”, cả cuộc đời bà gian khổ quá, bà chịu đựng bean bỉ vì thương con, thương cháu, vì có “niềm tin dai dẳng”. Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi bàn tay già nua, vén khéo mà bằng tất cả tấm long đôn hậu “ ấp iu nồng đượm”. Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần mang ý nghĩa khác nhau, bồi dắp cao dần, tỏa sáng dần nét “kì lạ” cảu bếp lửa, ý nghĩa “thiêng liêng” của việc làm và nhất là tình nghĩa của bà. “Nhóm bếp lửa”, ấy là cái bếp that, ánh sáng và hơi ấm that. “”Nhóm niềm yêu thương”, ấy là ấp ủ trong long, truyền cho cháu tình yêu thương ruột thịt. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vu”, bà mở rộng tấm long gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng, bà đã”nhóm day”, khơi day, giáo dục, thức tỉnh tâm hồn để đứa cháu lớn khôn, nên người bằng chính ngọn lửa từ trái tim bà. Ngọn lửa bà nhóm đã thành kỉ niệm tấm long, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước cháu suốt quãng đường dài.
	Bốn sòng thơ cuối là sự dồn tụ của cảm xúc, thể hiện những tình cảm, suy nghĩ that đẹp, cùng long kính yêu và biết ơn sâu nặng của đứa cháu bé nay đã trưởng thành và đã đi xa đối với bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu.
Có lửa trăm nhà. Niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quean nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...”
Tình thương của bà đã nuôi dưỡng cháu nên người để cháu được đi xa, được thấy “ngọn khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” Mỗi câu mỗi chữ như cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thướng, ơn nghĩa. Lời thơ còn mang ý nghĩa triết lí về nghĩa tình đối với quê hương: dẫu có đi đến nơi nào, cuộc sống có sang trọng sung sướng thế nào, cùng với những vật dụng tiện nghi vật chất đầy đủ cũng không thể nào phai nhạt mối tình quê hương nồng ấm qua bếp lửa quê hương mà mỗi sáng bà nhen. Đó là đạo lí cội nguồn của dân tộc VN. Vì thế, câu hỏi tu từ ở cuối bài tỏa sáng cả bài thơ.
III.Kết bài:
	Bài thơ hay và xúc động. Đó là bởi thứ thơ độc đáo: bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng; kết hợp hài hòa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự và nghị luận; giọng thơ thủ thỉ tâm tình ất hợp với tình bà cháu. Bài thơ xúc động còn bởi nó đề cập đến những tình cảm rất bình thường nhưng than thiết của mỗi con người: tình bà cháu gắn bó với tình cảm gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước. Do vậy, nó có tác dụng giáo dục lớn về đạo lí, về tình nghĩa thủy chung cho thế hệ. trẻ

Tài liệu đính kèm:

  • docxPhan tich bai tho noi voi con bep lua.docx